Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Chương 08

Phiên bản Dịch · 4877 chữ

- Chúng ta được đi xem hội! Chúng ta được đi xem hội! - Đám phụ nữ ở hậu cung reo lên, các vòng tay va nhau kêu xủng xoẻng.

- Nào các bà ơi, làm gì mà cuống lên thế! Osman Faraji nhắc nhở.

Y đi qua đi lại trước mặt các hàng người đeo mạng che mặt kiểm tra trang phục và đồ trang sức củ

a từng người, nhìn kỹ xem các mạng che mặt có được buộc chặt không.

Từ phía bờ thành bên ngoài hoàng cung vẳng đến tiếng rì rầm nơi đám nô lệ đang sống trong các lán trại, phân thành nhiều khu vực cho từng dân tộc, mỗi dân tộc có thủ lĩnh và hội đồng riê

Đoàn phụ nữ được đám kỵ sĩ của Quốc vương bảo vệ chẳng mấy chốc đã nhập vào đám rước hoàng gia đang tập hợp. Mulai Ismail đi dưới một chiếc lọng do hai chú bé da đen vác. Quanh hắn là các tù trưởng và cả các cố vấn thân cận nhất. Tên Do thái Samuel Baideran, tên phản đạo Tây Ban Nha Juan di Alfero, đổi tên là Sidi Mushadi từ ngày cải giáo, và một tên phản đạo khác, người Pháp, tên là Romain de Montfleur, đã đổi tên thành Sidi Rodani, phụ trách súng đạn.

Quốc vương đưa tay trang trọng chào mừng Osman Faraji khi y ngồi vào chỗ cùng với các triều thần.

Những người Arập tụ tập dưới bầu trời nóng nực ngột ngạt. Tiếng la hét của họ át cả tiếng sáo véo von và tiếng trống bình bịch. Nhưng khi đám rước tiến vào quảng trường trung tâm của Meknès, tiếng hò reo càng ầm ĩ hơn. Khi đám người mặc burnous trắng mở một lối đi cho đoàn, người ta nhìn thấy trên một khuôn viên rộng một khối người rách bươm và những bộ mặt da trắng đang la hét điên cuồng. Giống như những kẻ bị đày xuống địa ngục họ dang tay về phía Mulai Ismail, nhưng bị đẩy lùi bởi bọn lính gác tay roi, tay gậy. Trong sự hỗn độn của đủ thứ tiếng ở châu u chỉ nghe rõ một câu: “Người Norman! Người Norman! Hãy ân xá Colin người Norman!”

Mulai Ismail ra hiệu cho đám rước dừng lại, một nụ cười thoáng hiện trên môi, như thể hắn xem những lời thỉnh cầu khẩn khoản kia như là những tiếng hoan hô nhiệt liệt. Đoạn hắn bước lên lễ đài cùng với đoàn tùy tùng. Hoàng hậu và các cung phi được ngồi ở những vị trí có thể nhìn bao quát quảng trường. Chính vào lúc này Angélique nhìn thấy rõ cái gì đã ngăn cách Quốc vương và các cận thần với đám nô lệ.

Ở chính giữa quảng trường có một cái hố hình chữ nhật sâu khoảng sáu mét và khá rộng. Nền đất quanh rìa hố có rắc cát trắng. Những mỏm đá và một vài thứ cây mọc ở sa mạc tạo cho nó cái dáng vẻ một mảnh vườn con. Mùi nước đái của dã thú bốc lên từ hầm sâu làm nồng khắm bầu không khí oi bức. Đó là hang sư tử.

Sau đó Angélique nhận thấy những xác súc vật rải rác ở bốn góc, và ở cuối hầm hai tấm chắn bằng gỗ che đường hầm dẫn đến chuồng sư tử.

Mulai Ismail giơ tay lên và một trong hai tấm chắn được nâng lên bằng một bộ máy vô hình.

Đám nô lệ nhoài người lên mạnh đến mức những kẻ đứng phía trước suýt bị hất vào hầm sâu, phải quỳ xuống chống tay bên miệng hố, và dán mắt vào cái vực thẳm tối tăm phía dưới.

Một dáng hình từ từ xuất hiện: một nô lệ bị xích cả chân tay. Tấm chắn sập xuống phía sau anh ta. Người nô lệ nhấp nháy mắt trước ánh nắng chói chang. Từ trên lễ đài nhìn xuống anh ta nom cao lớn và lực lưỡng phi thường. Chiếc áo sơ mi và chiếc quần đùi của anh để lộ tay chân gân guốc và bộ ngực nở nang đầy lông, lấp lánh một chiếc mề đay tôn giáo. Đôi mắt xanh nổi bật giữa mái tóc và chòm râu màu sáng. Mái tóc và chòm râu nhìn kỹ đã có vài đốm bạc, vì anh ta ít ra cũng đã bốn mươi, và đã sống mười hai năm đời nô lệ.

Trong đám đông có tiếng xì xào, rồi dần dần trở thành tiếng thét: “Colin, bạn ơi, hãy chiến đấu, giết, giết sạch nhưng đừng chết! Đừng chết!”.

Người nô lệ giơ hai tay lên để trấn an đám đông ô hợp. Angélique nhìn rõ những lỗ rỉ máu trong lòng bàn tay của anh ta, và nhận ra đó là người đàn ông nàng đã nhìn thấy bị đóng đinh trên cổng thành khi nàng vào thành phố. Với những bước đi thận trọng cân nhắc anh ta tiến vào giữa hầm, ngẩng mặt về phía Mulai Ismail.

- Xin chào Đức Ông - anh ta nói bằng tiếng Arập - Ngài có khỏe không">

- Khỏe hơn mi nhiều, đồ chó - Quốc vương đáp lại - Thế nào, cuối cùng thì mi đã nhận ra được là đã đến ngày mi phải trả giá cho sự hỗn xược của mi chưa? Ta đã phải chịu đựng bao nhiêu năm nay rồi mi có biết không? Ngay cả hôm qua mi còn dám trêu gan ta, mi còn dám đòi ta phải triệu tập các Cha đến Vương quốc của ta để bán cho họ những tên nô lệ của ta. Ta không muốn bán nô lệ. Chúng thuộc về ta. Ta không phải ở Algiers, hay Tunis. Và ta không bắt chước những tên lái buôn đồi bại kia, chỉ nghĩ đến tiền bạc mà quên nghĩa vụ đối với Thánh Allah. Mi đã khiến ta mất hết chút kiên nhẫn còn sót lại, nhưng đừng hòng đạt được mong ước của mi. Hôm qua lúc ta áp môi vào tai mi và nói những lời hứa hẹn, mi có nghĩ rằng hôm nay mi sẽ bị ném vào hầm sư tử không?

- Không hề, thưa Đức Ông - Người Norman ôn tồn đáp lại.

- Thế mà mi lại khoái chí và huyên hoang với bọn đệ tử của mi là mi đã buộc được ta phải làm những điều mi muốn. Colin Paturel, mi sắp chết đến nơi rồi!

- Vâng, thưa Đức Ông.

Mulai Ismail lại ngồi xuống, vẻ mặt buồn buồn. Đám nô lệ lại tiếp tục kêu la, van vỉ. Bọn lính gác phải chĩa súng về phía họ. Quốc vương cũng nhìn về phía họ, nét mặt sa sầm.

Ta chẳng vui vẻ gì khi khép mi vào tội tử hình, hỡi Colin Paturel. Đã nhiều lần ta buộc lòng phải làm như thế nhưng rồi ta rất vui mừng khi mi trở về bình yên vô sự, sau mỗi lần tra tấn nhục hình nhằm hủy diệt mi. Nhưng lần này thì đừng hòng. Ta sẽ không cho phép bọn quỷ dữ có cơ hội cứu mi. Ta sẽ không đi khỏi nơi này trước khi mẩu xương cuối cùng của mi bị sư tử nuốt. Tuy nhiên ta cũng chẳng vui vẻ gì phải nhìn mi chết, nhất là chết trong bóng tối của những tín ngưỡng sai lầm của mi, và để rồi sẽ vĩnh viễn bị đày ải. Ta vẫn có thể ân xá cho mi. Chỉ cần mi trở thành một tín đồ Hồi giáo">

- Điều đó không thể được, thưa Đức Ông.

- Làm sao mà một người thông thạo tiếng Arập như mi lại không thể nói lên những lời đơn giản này: “Không có chủ nào khác ngoài Thánh Allah và Mohammed là vị Tiên tri của Người” - Mulai Ismail gầm lên.

- Nếu tôi phải nói những lời nói đó tôi sẽ trở thành một tín đồ Hồi giáo. Và rồi, thưa Đức Ông, Ngài sẽ gặp nhiều chuyện phiền phức. Tại sao Ngài lại không vui khi nhìn thấy tôi chết, tại sao Ngài lại muốn cứu mạng sống của tôi? Bởi vì tôi là thủ lĩnh các nô lệ của Ngài tại Meknès này, bởi vì nhờ tôi họ lao động tại các công trường xây dựng của Ngài hăng hái hơn, và bởi vì Ngài cần giữ tôi lại bên họ để hoàn thành các cung điện và nhà thờ. Nhưng nếu tôi phải trở thành một tín đồ Hồi giáo, tôi sẽ là một tên phản đạo, thì lúc đó tôi liệu còn có uy tín gì nữa đối với những người Cơ đốc giáo này? Tôi có thể chít khăn, đi lễ nhà thờ Hồi giáo, và chẳng bao giờ phải cầm đến cái bay cho Ngài nữa. Là một tên phản đạo, tôi tuột khỏi tay Ngài vì những con sư tử.

- Đồ chó, giọng lưỡi xảo quyệt của mi đã lừa dối ta quá nhiều rồi. Giờ thì mi phải chết.

Một sự im lặng bao trùm lên đám đông đang nín thở, vì trong khi người nô lệ nói, tấm chắn phía sau anh ta từ từ nâng lên. Một con sư tử rất đẹp vừa mới chậm rãi bước ra khỏi đường hầm. Nó lắc mạnh cái bờm đen vĩ đại, và nhẹ nhàng tiến lên phía trước, êm như bước chân mèo. Sau đó là một sư tử cái, rồi một sư tử từ vùng núi Atlas, bờm hung hung và lông màu cát. Chúng yên lặng đến gần người nô lệ. Anh ta không hề nao núng. Con sư tử xứ Nubi quất nhẹ đuôi, nhưng hình như điều kích động nó lại là những gương mặt háo hức trên miệng hầm cúi xuống chứ không phải con người bất động đứng cạnh nó. Nó gầm mấy tiếng nữa rồi uể oải duỗi dài hai chân sau.

Angélique giấu mặt sau chiếc mạng che. Rồi nàng nghe đám đông lao xao, và ngẩng lên nhìn. Hoàn toàn chán ngấy cái tính hiếu kỳ ghê tởm mà mình là đối tượng, con sư tử đã đi đến nằm dưới bóng một mỏm đá. Khi đi qua người nô lệ, như một con mèo khổng lồ, nó hoàn toàn không chú ý đến, chỉ cọ cọ vào chân anh ta.

Đám người Arập la ó điên cuồng vì thất vọng. Họ ném đá và đất cục xuống hầm để chọc tức lũ sư tử. Nhưng mấy con thú chỉ đồng thanh gầm lên, và sau khi đi mấy vòng quanh hầm, chúng nằm dài trước các tấm chắn đóng kín, như thể không muốn điều gì khác ngoài việc tiếp tục giấc ngủ trưa yên lành, không bị quấy rầy.

Hai con mắt của Mulai Ismail như lồi hẳn ra: “Hắn có bùa phép”, hắn luôn mồm lẩm bẩm. Đoạn hắn đứng lên và đi đến miệng hầm.

- Colin Paturel, lũ sư tử không muốn hại mi. Mi có quyền lực gì đối với chúng thế? Nói cho ta biết, ta sẽ tha chết cho mi.

- Hãy tha chết cho tôi trước đã, tôi sẽ trình Ngài rõ sau.

- Được rồi! được rồi - Quốc vương sốt ruột nói.

Hắn ra hiệu cho bọn gác nâng mấy tấm chắn lên. Lũ sư tử ngáp một cái và nhảy cẫng lên lao vào trong đường hầm tối om. Mấy tấm chắn lại sập xuống.

Từ cổ họng của đám nô lệ vang lên tiếng hét dữ dội. Các tín đồ Cơ đốc ôm nhau khóc. Thủ lĩnh của họ đã được cứu sống!

- Nói đi! Nói đi! - Mulai Ismail hét lên.

- Xin Đức Ông ban cho một ân huệ nữa. Ngài hãy cho phép các Cha cố đến Meknès để thương lượng về việc chuộc lại nô lệ

- Đưa súng cho ta. Ta sẽ tự tay giết chết hắn!.

- Tôi sẽ mang theo điều bí mật của tôi.

- Thôi được rồi. Cứ để cho các Cha cố đến. Chúng ta sẽ chờ xem họ mang đến cho ta lễ vật gì và xem ta có thể trả lại cho họ cái gì, nói đi, Colin Paturel.

Tuy tay chân bị xích, người nô lệ lực lưỡng vẫn nhẹ nhàng trèo lên các mỏm đá nhô ra hai bên thành hầm. Khi anh nhảy ra khỏi hầm giữa đám người Arập, chẳng ai dám chạm vào anh, mặc dù họ cảm thấy hổ thẹn và thất vọng. Anh phủ phục trước ngài Mulai Ismail, áp trán xuống đất.

Một vẻ bối rối gần như một nụ cười hiện lên cặp môi dày của tên bạo chúa, khi hắn gí mũi hài cong vào cái cổ chắc nịch của người nô lệ.

- Đứng lên, đồ chó chết tiệt!

Anh chàng người Norman đứng thẳng người lên.

Angélique cứ dán mắt vào cái cảnh tượng hai người đàn ông mặt đối mặt với nhau. Nàng ngồi gần họ quá nên không dám cử động, thậm chí không dám thở mạnh. Những cảm xúc mãnh liệt do hai người đàn ông khơi động trong lòng nàng như những đợt sóng ngầm làm nàng choáng ngợp. Osman Faraji đã làm đúng khi y buộc nàng phải cùng Mulai Ismail hội ngộ. Nàng không thoát nổi cái uy lực trong tính cách của hắn, nó toát ra từ người hắn như nhiệt tỏa ra từ lò lửa rực đỏ. Ở xa nàng đã có thể nhận xét hắn là một con rối nguy hiểm bị những thích thú ác dâm thao túng. Nhưng hắn không phải thế. Hắn còn tồi tệ hơn nhiều. Gương mặt màu đồng đen ngời sáng và điển trai của hắn quả đã gieo kinh hoàng vào lòng các tù trưởng già nua tuổi tác và thạo nghề chinh chiến, nhưng điều chính yếu vẫn là cái quyền lực hầu như siêu phàm của hắn đã cuốn hút họ đến với hắn cùng với lòng trung thành vô hạn và những nỗ lực phi thường.

Nàng nhớ lại mi>đã có những cảm xúc tương tự khi nàng đứng trước Louis XIV. Mỗi lần cảm thấy mình yếu đuối, Mulai Ismail lại nổi trận lôi đình, đâm chém lung tung, vì hắn coi đó là một sự thóa mạ đối với cái sức sống mãnh liệt đang bùng cháy trong hắn như lửa từ hỏa diệm sơn. Hắn đòi hỏi một đối thủ ngang sức với mình, như người nô lệ tay không này. Một người có quyền uy tối cao, người kia mang nặng xích xiềng, nhưng mỗi người - Quốc vương và kẻ nô lệ, Hồi giáo và Cơ đốc - họ chỉ biết có mỗi một kẻ thù! Đó là Azrael. Thần chết.

Nhưng thần chết da đen co rúm vì hoảng sợ trước hai con người vĩ đại này, và ra đi tìm những tâm hồn kém cỏi hơn để phạt ngang lưỡi hái. Azrael phải đợi đến một ngày khác để đòi mạng sống của hai người: của Mulai Ismail, bất chấp bộ giáp trụ hắn mang bên trong tấm áo burnous và của Colin Paturel, mặc dù anh lắm mưu ma chước quỷ. Song cuộc chiến đấu chống lại thiên thần sẽ vô cùng ác liệt, và phải bao năm tháng nữa Azrael mới giành được thắng lợi cuối cùng. Chỉ cần trông hai người nhìn nhau trừng trừng là có thể nhận ra điều ấy.

- Nói đi! - Mulai Ismail ra lệnh - Mi đã dùng ma thuật nào để chặn hàm sư tử?

- Thưa Đức Ông, chẳng phải là ma thuật gì đâu. Khi Ngài chọn hình phạt này cho tôi, Ngài quên rằng tôi đã làm việc một thời gian dài trong chuồng sư tử, và đã nhiều lần giúp đỡ những người chăn sư tử. Lũ sư tử đã quen tôi, và tôi vẫn thường vào trong mà chẳng sao cả. Mới ngày hôm qua, tôi tự nguyện thay cho người chăn sư tử và cho sư tử ăn hai suất liền. Tôi vừa bảo là hai suất à? Ba suất kia! Ba con sư tử mà Ngài chọn vì cho là ba con dữ nhất đến lúc đi vào hầm mà bụng vẫn cứ căng ra. Tôi có cần phải nói thêm là chúng chẳng đói tí nào không? Hễ cứ nhìn miếng thịt, dù sống hay chết là chúng đã lộn mửa rồi, vì tôi đã trộn ít thuốc gây ngủ vào thức ăn của chúng.

Mặt Mulai Ismail sa sầm xuống vì tức giận.

- Quân trơ tráo! Mi dám cả gan bảo với ta trước mặt thần dân ta là mi đã biến ta thành một thằng hề ư? Ta sẽ tự tay chém phứt đầu mi đây!

Hắn đứng dậy, rút kiếm ra, nhưng thủ lĩnh nô lệ ra hiệu phản đối.

- Tôi đã nói ra điều bí mật cho Ngài. Tôi đã giữ lời hứa. Ngài lừng danh là một Quốc vương lấy chữ tín làm đầu. Ngài đã ban cho tôi cuộc sống và Ngài đã hứa cho phép các Cha cố đến đây để chuộc lại chúng tôi.

- Chớ nói nhiều làm ta nổi giận! Tên bạo chúa gầm lên, vung cao kiếm, nhưng rồi lại lầu bầu tra kiếm vào bao.

Vừa lúc đó đám thị tì mang một mâm lớn thức ăn ra. Trước đó Mulai Ismail đã ra lệnh dọn tiệc cho hắn ở đấy, hi vọng nhìn thấy lũ sư tử ăn thịt Colin một cách ngon lành khẩu vị của hắn cũng tăng lên.

Bọn thị tì giật mình lùi lại khi nhìn thấy bữa ăn của sư tử đang đứng trước mặt Quốc vương.

Quốc vương ngồi xuống trên một đống đệm và ra hiệu cho đám tùy tùng xúm lại xung quanh để cùng ăn.

Đoạn hắn lại hỏi:

- Sao mi đoán được là ta dự định cho sư tử ăn thịt mi? Cho đến sáng sớm hôm nay ta chưa hở môi cho bất cứ một ai. Ngược lại cái tin là ta đã thuận theo ý mi đã lan truyền khắp hoàng cung.

Đôi mắt xanh của người nô lệ nheo lại:

- Thưa Đức Ông, tôi biết rõ Ngài, tôi biết rất rõ.

- Mi có định nói là những dự định của ta đã quá rõ, nên không thể đánh lừa những ai tiếp cận ta?

- Ngài tinh ranh như cáo, còn tôi thì là một người Norman.

Quốc vương cười phá lên, hai hàm răng trắng ánh lên như một vệt sáng chiếu ngang bộ mặt ngăm đen của hắn. Nghe Quốc vương cười tất cả nô lệ cũng cười theo vì họ đã biết được điều “bí mật” của Colin Paturel.

- Ta rất thích người Norman các ngươi - Mulai Ismail hồ hởi nói - Ta sẽ lệnh cho bọn cướp biển càn quét vùng biển Normandie từ Holfleur đến tận Le Havre, và mang về cho ta một lô người Norman. Chỉ có một điểm ta không thích ở mi, Colin Paturel ạ. Mi to lớn quá. Mi cao hơn ta, và đó là điều ta không chịu nổi.

- Có nhiều cách để sửa chữa chuyện đó, thưa Đức Ông. Ngài có thể chặt phăng đầu tôi đi, hoặc mời tôi ngồi xuống cạnh Ngài. Thế là với cái khăn chít trên đầu, Ngài sẽ cao hơn tôi.

- Được rồi - Quốc vương nói sau một hồi suy nghĩ, lúc này hắn thấy không nên tỏ ra là mình bị xúc phạm - Ngồi xuống.

Người nô lệ ngồi xuống xếp bằng trên đệm, cạnh Quốc vương, Mulai Ismail đưa cho anh ta một con chim bồ câu mới ra ràng.

Các tù trưởng và các triều thần ngồi chung quanh lầu bầu tức giận. Ngay cả Leila Aisheh và Daisy Valina cũng tím mặt lại. Mulai Ismail nhìn họ trừng trừng.

- Các người lầu bầu cái gì? Các người không có phần hay sao?

Một trong những cận thần, tên phản đạo người Tây Ban Nha Sidi Ahmed, cười xòa đáp lại:

- Thưa Chúa Thượng, không phải là chúng tôi lo thiếu thức ăn, mà lo vì thấy một tên nô lệ hôi hám ngồi cạnh Ngài.

Mắt Quốc vương tóe lửa:

- Thế tại sao các ngươi nghĩ rằng ta buộc phải đối xử với một tên nô lệ hôi hám như là một người ngang hàng? Hắn nói - Các người nghe đây. Bởi vì chẳng có ai trong các quân sư của ta chịu hạ mình nói thay cho nô lệ, vì sợ ô danh. Bọn nô lệ mà muốn xin ta điều gì, thì họ phải nói trực tiếp với ta, vì thế mà ta lâm vào cái thế khó xử là phải trừng trị chúng về tội xấc láo. Mỗi lần như thế ta lại mất đi một nô lệ, do sự tắc trách của các người. Các người phải tự biết nên làm trung gian giữa chúng với ta mới đúng chứ, nhất là ngươi, Sidi Ahmed Mashadi, và cả ngươi nữa, Rôdani vì các ngươi trước kia là tín đồ Cơ đốc. Tại sao các ngươi không lãnh trách nhiệm đề nghị ta để các Cha cố đến đây? Các ngươi không thương xót những người anh em cũ hay sao?

Mulai Ismail càng nói càng hăng. Tên Tây Ban Nha vẫn bình thản như không. Hắn biết rõ vị trí vững chắc của hắn, vì hắn là tổng chỉ huy của Quốc vương trong các chiến dịch chống các bộ tộc phản loạn. Đáp lại những lời quở trách chua cay của Quốc vương, hắn đưa mắt hằn học nhìn bọn nô lệ Cơ đốc.

- Tôi đã từ bỏ Chúa và Thầy của chúng rồi. Tôi chẳng hiểu tại sao tôi phải bận tâm đến tôi tớ của Người đó.

- Thưa Đức Ông, Ngài cho phép tôi ăn nhé? - Colin Paturel ôn tồn hỏi, tay vẫn cầm con bồ câu non. Lần này anh đang trải qua một thử thách ghê gớm, vì từ bao năm nay đối với cái dạ dày của anh đến cơm tù cũng chẳng đủ no, chứ nói gì tới loại cao lương mỹ vị này.

Câu hỏi của anh lại khiến Quốc vương nổi trận lôi đình. Lúc này hắn mới để ý thấy các tù trưởng đã bắt đầu ăn mà chẳng thèm đợi hắn. Thế là hắn lại lớn tiếng chửi mắng họ.

- Ăn đi! - Hắn quát vào mặt người Norman - và các người kia, lũ tham ăn, hãy thôi đừng có mà tọng đầy dạ dày, như thể suốt đời chỉ biết có bánh mì và nước lã. Ai chẳng biết các người đều ra sức vơ vét của cải của ta và đều trở thành trọc phú cả.

Hắn hạ lệnh cho các thị tì lấy thức ăn dành cho các tù trưởng mang đến cho bọn nô lệ. Các vị quan cố giằng lại đĩa của mình, bảo rằng nô lệ không đáng được ăn cùng mâm với Quốc vương. Nhưng Mulai Ismail bắt họ phải bỏ tay ra, và bọn thị tì vội mang đi những đĩa đầy ăm ắp nào gà, nào chim, nào cơm cari.

Bọn nô lệ cứ như một bầy sói đói nhảy bổ vào các thức Vua ban, tranh nhau đến miếng cuối cùng.

Vẫn náu mình trong đám đông Angélique nhìn những người này, lòng đầy thương cảm. Nàng nghĩ rằng họ đã sa sút quá chừng, sau bao nhiêu năm tháng tù đày gian khổ và vô vọng. Trong số họ chắc chắn có những con người đã từng là quý tộc, tu sĩ, những người có phẩm chất tốt đẹp. Nhưng nghèo khổ đã khoác chung cho họ bộ đồng phục rách rưới màu ghi. Nàng nhận thấy người nào cũng gầy guộc dễ sợ và nghĩ đến Savary, ngón tay chắc chỉ còn bằng que diêm. Ông lão đang đói ăn mà nàng thì chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện mời lão tấm bánh, quả cam.

Từ chỗ đứng của mình nàng đã chứng kiến cuộc đối thoại giữa Quốc vương và anh chàng người Norman. Nàng thấy tính cách mãnh liệt và sôi động của Mulai Ismail vừa cuốn hút nàng vừa làm nàng ghê tởm. Chinh phục được một con người như thế chẳng khác nào thuần hóa một con dã thú, nó mãi mãi vẫn hoang dã và khát máu.

Cô gái vùng Circasse có dòng sông Nile, tựa vào vai nàng, đôi mắt dán chặt vào Quốc vương. Cô ngập ngừng tâm sự với nàng bằng tiếng Arập rằng cô thấy hắn rất hấp dẫn.

- Ông ta không đến nỗi khủng khiếp lắm, chị ạ... Ông cố làm em bật cười và quên nỗi buồn khổ của mình. Ông tặng em một chiếc vòng. Bàn tay ông dịu dàng lắm. Bộ ngực ông như một cái khiên bằng bạc... Trước kia em chưa phải là đàn bà, nhưng bây giờ... mỗi đêm em lại tìm ra những niềm hoan lạc mới...

“Cô gái Circasse làm Quốc vương đẹp ý”. Osman Faraji đã nói như vậy. “Cô ấy làm Ngài vô cùng thích thú và quyến rũ Ngài như một chú mèo con. Thế là tốt. Tôi có thì giờ để chuẩn bị Ngài cho con hổ cái!”

Angélique nhún vai khá thô bạo. Nàng chẳng nói gì, nhưng càng ngày nàng cthấy khó tiếp tục cuộc kháng cự thụ động, mặc dù nàng được cung phụng đầy đủ, chăm sóc sắc đẹp và nghe kể nhiều chuyện khiêu dâm. Ở hậu cung luôn có cái gì đó khích động các giác quan. Mọi chuyện đều xoay quanh con người của Mulai Ismail, con người đầy quyền lực và vô hình. Tinh thần của hắn thấm nhuần mọi thứ và trở thành một ám ảnh.

Lúc này, khi có dịp nhìn thấy hắn bằng xương bằng thịt, nàng thích hơn là thấy hắn trong tưởng tượng. Giờ đây hắn có kích thước con người, chứ không phải những tính chất trừu tượng, hầu như siêu phàm của một huyền thoại. Nàng chưa bao giờ cảm thấy choáng ngợp trước một người đàn ông thực sự. Nàng tiếp tục theo dõi Mulai Ismail, như những người khác đang làm, và cuối cùng nàng thấy hắn hợp với ý mình.

- Khi nào Ngài sẽ để cho các Cha cố đến - Colin Paturel vừa hỏi, vừa nhét thức ăn vào mồm.

- Họ có thể đến lúc nào họ muốn. Cho họ biết là ta sẽ xử sự công bằng với họ.

Anh chàng người Norman đề nghị viết hai bức thư, một bức của Quốc vương gửi cho Ali, con trai của Aballah, tù trưởng ở thành phố Ceuta thuộc Tây Ban Nha, để y có thể bắt đầu đàm phán, bức kia gửi cho các Cha Ba Ngôi, mà các thương nhân người Pháp sẽ chuyển.

Mulai Ismail lập tức gọi lấy bút, và Colin Paturel triệu đến một thư lại, chú bé gầy guộc trước đó ít phút đã thét lên “Đừng giết! Đừng giết!” Biệt danh nó là Jean-Jean, quê ở Paris, một trong số rất ít nô lệ quê ở thành phố này.

Colin Paturel đọc cho nó viết một lá thư gửi cho các Cha Bề trên, yêu cầu họ chuẩn bị một phái đoàn để mua lại các nô lệ ở Meknès, trước giờ vẫn bị bỏ rơi ở đó. Anh khuyên họ nên mang thật nhiều lễ vật để vừa lòng Quốc vương, nhất là đồng mặt vàng tượng trưng cho mặt trời.

Mắt của Quốc vương ánh lên. Đột nhiên hắn nóng lòng muốn phái ngay sứ giả.

Piccinino, quê ở Venice, làm thủ quỹ cho nô lệ, lấy bốn ducat[4] ra để trả công cho chú thư lại vừa viết xong bức thư gửi Ali. Bức thư được niêm phong và cho vào một cái túi vải, mà sứ giả phải nhét vào nách mang đi.

Mặt Mulai Ismail sa sầm:

- Thế mi gọi họ là các Cha Ba Ngôi.

- Vâng, thưa Đức Ông. Họ hiến thân cho tôn giáo, và đi khắp nước thu thập những số tiền quyên góp nho nhỏ của những

kẻ mộ đạo để có tiền chuộc lại những nô lệ nghèo xác nghèo xơ.

Thế nhưng mối quan tâm của Quốc vương là ở chỗ khác kia.

- Ba Ngôi? - Hắn nói - Có phải đó là thứ giáo điều mà các người truyền bá - tức là Chúa chia làm ba người? Chỉ có một Chúa thôi. Ta không thể cho phép những tên phản đạo trong vương quốc ta tin vào những điều báng bổ như thế.

- Được rồi, ta có thể gửi thư cho các Cha Dòng Chúa Cứu thế, Colin Paturel vừa nói vừa chữa lại địa chỉ.

Cuối cùng sứ giả phóng ngựa lên đường để lại đằng sau một đám bụi hồng, và Mulai Ismail tiếp tục câu chuyện.

Bạn đang đọc Tình sử Angélique của Serge Anne Golon
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 15

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.