Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

TRẬN CHIẾN NGHÌN NĂM

Phiên bản Dịch · 26913 chữ

CHƯƠNG 29

TRẬN CHIẾN NGHÌN NĂM

Cuối cùng lạt ma Á La nói: “Trận chiến với Tượng Hùng, tổ hợp người và ngao đã đánh bại tổ hợp sói và đại kim bằng, kế đó quét sạch mười vạn đại quân của Tượng Hùng, từ đấy không còn địch thủ nữa. Trận chiến kinh thiên động địa ấy, cuối cùng cũng quét sạch chướng ngại cuối cùng ngăn trở Tạng vương Tùng Tán Can Bố thống nhất cao nguyên. Mô thức của thú chiến đã được viết lại một cách triệt để, thao thú sư trực tiếp tham chiến với thân phận binh sĩ, đó là chuyện chưa từng được nghe nói đến trong lịch sử của thú chiến. Và chiến ngao, thủ hộ linh hoàn toàn mới ấy cuối cùng cũng được người đời biết đến, bằng bá khí lấn nuốt cả thiên hạ ấy, chúng đã tuyên bố với những thủ hộ linh khác rằng mình mới là loài thú chiến đầu mạnh mẽ nhất…”

SẮP XẾP CỦA BEN

Trác Mộc Cường Ba quay đầu lại, cũng lấy làm kinh ngạc kêu lên: “Chính, sao lại là anh?” Kế đó gã liền quay sang giới thiệu với Nhạc Dương: “Đây là phó tổng giám đốc công ty chúng tôi, Đồng Phương Chính, là chiến hữu giám đốc cùng tạo lập sự nghiệp với tôi đấy. Vị này là thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt của tôi, trinh sát Nhạc Dương.”

Người mới đến không phải ai khác mà chính là Đồng Phương Chính được Trác Mộc Cường Ba ủy thác toàn quyền quản lý công ty.

Đồng Phương Chính nói: “Lần này anh đi liền một mạch hai năm chẳng có tin tức gì cả, thời gian lâu hơn bất cứ lần nào trước đó. Nếu không phải tiền trong tài khoản vẫn không ngừng tiêu hao, tôi tưởng anh đã hoàn toàn biến mất rồi đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nở nụ cười áy náy nói: “Ừm, từ đấy vẫn toàn huấn luyện bí mật, vì vậy gần như tôi không có liên hệ với thế giới bên ngoài. Phải rồi, sao anh biết tôi ở đây?”

Đồng Phương Chính đáp: “Tôi xem chương trình tin tức trên ti vi, nói bệnh viện này tiếp nhận một nhóm người bịthương nặng, nghe đâu là một nhóm mạo hiểm tự phát. Tôi thấy có anh chàng lần trước cùng anh đến công ty, liên đoán chính là mọi người, quả nhiên…”

Trác Mộc Cường Ba cười cười nói: “Là Trương Lập, đúng rồi, tình hình công ty thế nào?”

Đồng Phương Chính lộ vẻ ái ngại: “Tình hình không được tốt cho lắm. Sau khi anh đi, công ty xảy ra mấy chuyện lớn, năm đầu tiên là vụ khu nhà chó bị trúng độc tập thể, mặc dù đã cấp cứu, nhưng chúng ta vẫn mất đi Hùng Hùng, Totti, Tiểu Khôi…tổng cộng sáu con ngao giống. Về sau điều tra ra, là do Tiểu Trương vì một số bất mãn với chuyện điều động công tác mà cố ý đầu độc, đã xét xử rồi, lần đó chúng ta tổn thất phải đến mấy triệu tệ. Sau đó lại xảy ra chuyện người mua không biết chăm sóc làm chó mắc bệnh dại, ảnh hưởng rất lớn đến thanh danh của công ty. Nguyên nhân chủ yếu là do giờ người ta đã nhìn thấy lợi ích thương nghiệp rất lớn của việc nuôi dưỡng chó ngao, người người đều nuôi ngao, bất kể họ có phải dân chuyên nghiệp hay không, chúng ta phải đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn từ thị trường. Tôi cũng đã tận hết tâm sức để duy trì công ty, chỉ hận mình không thể mọc ra tám cánh tay thôi. Phải rồi, Cường Ba à bao giờ anh định trở về công ty vậy?

Trác Mộc Cường Ba nhìn Đồng Phương Chính mệt mỏi lo âu, rồi lại ngoảnh đầu nhìn những giường bênh trống, mỗi chiếc giường đều đại diện cho một người anh em đã cùng vào sinh ra tử với gã. Trác Mộc Cường Ba vỗ nhẹ lên vai Đồng Phương Chính nói: “Giờ công ty vẫn có thể hoạt động bình thường chứ?”

Đồng Phương Chính đáp: “Hoạt động bình thường à…đương nhiên, chỉ là thời kỳ tiền vào như nước khi anh đứng đầu công ty thuở trước đã qua rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chỉ cần vẫn hoạt động bình thường là tốt rồi, cho tôi thêm một ít thời gian nữa, chúng tôi đã nắm được đầu mối quan trọng nhất, sắp thành công tới nơi rồi. Khoảng thời gian này, chính là thời gian phong trào nuôi chó ngao lan rộng, thị trường sẽ gặp phải chấn động rất lớn. Với sự đào thải của thị trường, những kẻ không có tư chất nuôi chó ngao sẽ bị gạt ra ngoài thôi. Nếu lần này tôi có thể tìm được Tử Kỳ Lân, chúng ta sẽ sở hữu giống cho ngao xuất sắc nhất, thuần chủng nhất thế giới. Chì cần giữ được qua khoảng thời gian này thì sẽ không còn vấn đề gì nữa, tôi tin rằng với năng lực của anh, chuyện này cũng chẳng khó khăn gì cho lắm.”

Đồng Phương Chính cười khổ nói: “Rốt cuộc còn cần bao lâu nữa? Có thể nói chắc được không?”

Trác Mộc Cường Ba khó xử nói: “Chuyện này xác định dựa trên tình hình hồi phục của chúng tôi và cả việc giải mã đầu mối nữa, thời gian cụ thể thế nào tôi cũng khó đưa ra phán đoán lắm.”

Đồng Phương Chính lại cười khổ, cơ hồ như lơ đãng, đưa mắt liếc nhìn sang phía Nhạc Dương một cái, thấp giọng nói: “Cường Ba à, tôi phải nói trước, nếu công ty kinh doanh không được nữa thì anh cũng không thể trách tôi đâu đấy nhé.”

Trác Mộc Cường Ba ấn hai vai Đồng Phương Chính, cười cười nói: “Anh làm việc, tôi yên tâm.”

Hai người lại nói chuyện thêm một lúc nữa, rồi Trác Mộc Cường Ba dặn dò Đồng Phương Chính phải giữ bí mật, vì sức khỏe cũng chưa hồ phục nên gã chỉ có thể tiễn Đồng Phương Chính bằng ánh mắt. Một lúc sau, Trương Lập lết cánh tay bó bột trở lại, lẩm bẩm nói: “Bóng người lúc nãy sao mà quen thế, điệu bộ như thể nhiều tâm sự lắm, mà tôi nghĩ mãi cũng không nhớ ra là ai nữa.”

Bóng người! Trác Mộc Cường Ba đột nhiên như nắm bắt được điều gì đó, đúng rồi, trong Đảo Huyền Không tự, gã cũng thấy một bóng người, quen thuộc lắm, hiềm nỗi lúc ấy quá tối tăm, gã có nghĩ thế nào cũng không thể nhớ ra đã từng thấy cái bóng lưng ấy ở nơi nào!


Thị trấn Lochaber, Scotland, Vương quốc Anh, ở đây có một trang viên tràn ngập hơi thở đồng quê, toàn bộ trang viên tọa lạc trên miền núi bên bờ biển, nhìn về phía Tây có thể ngắm Đại Tây Dương ầm ầm sóng vỗ, nhìn sang phía Đông có thể thấy núi Ben Mevis. Trang viên rộng khoảng tám trăm hecta, sau cánh cổng vòm khổng lồ màu trắng một đồng cỏ mênh mông trải tới tận chân trời xanh ngắt. Ba cái hồ nhân tạo như ba cánh hoa vây lấy tòa lâu đài lớn vào giữa, một dòng sông ngoằn ngoèo uốn lượn như dải lụa phác lên nền cỏ xanh đường nét của con rồng Trung Quốc, đồng thời tạo thành ba dòng thác trên những bậc thang đan xen nhau. Vô số tượng kiểu La Mã, kiểu Ý rải rác khắp nơi trên trảng cỏ xanh bằng phẳng, nghệ thuật làm vườn Trung Quốc và Nhật Bản được dung hợp một cách vừa phải, một đường ray xe lửa chạy xuyện suốt cả trang viên, ngồi trên xe lửa nhỏ, chỉ cần hai ba tiếng đồng hồ là có thể chạy hết một vòng quanh nơi đây.

Nơi này, là một trong những chỗ ở của Merkin tại Anh quốc.

Lâu đài tựa như cung điện Versailles của Pháp, Merkin rất thích lặng lẽ một lúc lâu trước cửa sổ kiểu Pháp trên tháp chuông mười ba tầng. Từ đây có thể thu gọn cả trang viên vào tầm mắt, cũng có thể nhìn thấy mặt trời khuất dần sau rặng núi Tây, thấy trăng sao nhô lên khỏi mặt biển, là căn phòng nơi Merkin dùng để suy nghĩ, một phòng sách khổng lồ. Lúc này, trong phòng chỉ có ba người, Merkin, Soares và Max đang ngược ngược xuôi xuôi lo bưng trà rót nước.

“Đã sắp xếp ổn thỏa cho đám kia chưa hả?” Merkin hỏi.

Max đang pha trà. Hình như hắn cũng nghiên cứu kha khá về phương diện này, vì nói cho cùng muốn lấy lòng ông chủ thì cũng phải có năng lực để mà lấy lòng chứ. Chỉ nghe hắn đáp: “Vâng, giờ này chắc chúng nó đang chơi vui vẻ ởLas Vegas rồi.”

Merkin nói: “Ừm, tốt lắm, nếu không thỏa mãn ham muốn vật chất của chúng thì chúng cũng không bán mạng nhưvậy đâu. Lần này chỉ còn tám thằng sống trở về, không biết lần sau còn được mấy thằng nữa đây.”

“Còn lần sau nữa à? Bản đồ cũng bị cướp đi rồi còn gì?” Soares cười hết sức thần bí.

“Ông chủ, tôi không hiểu, với thực lực của ông, sao lại bị cái lão già ấy cướp mất bản đồ cơ chứ.” Đây là câu hỏi Max hỏi nhiều nhất trong khoảng thời gian này. Mỗi lần nêu câu hỏi này ra, hắn đều phát hiện Merkin thoáng lộ vẻ đắc ý, vậy là hắn liền tỏ ra thêm ngây ngốc đần độn, cứ hỏi đi hỏi lại mãi.

Merkin cầm chén trà lên, hắn rất thích thứ thức uống đến từ Trung Quốc này, điềm đạm nói: “Nói thực cho hai người biết, chớ có nên coi thường lão già ấy. Có lẽ lão là người lợi hại nhất trong đám kia đấy, kỹ thuật chiến đấu của lão cao cường hơn bất cứ người nào Merkin tôi đã từng gặp trước đây đó.”

Soares mỉm cười nhấp một ngụm trà, quay đầu ra ngắm cảnh sắc ngoài cửa sổ, cảnh sắc nơi này quả thực là không tệ chút nào. Lần đầu tiên được ông chủ trả lời thẳng vào vấn đề, Max vội tỏ vẻ thành khẩn lắng nghe, tiếp tục hỏi: “Nói vậy, chẳng phải lão còn lợi hại hơn cả ả nữ giáo quan kia sao?”

“Ừm,” Merkin nói, “lấy cuộc đụng đầu chính diện của tao và lão lần này làm ví dụ đi, lão vẫn chưa giở hết toàn lực ra đâu.”

“Hả” Max hơi run tay, suýt chút nữa thì làm bắn nước trong ấm trả ra ngoài.

“Có điều,” Merkin mỉm cười bổ sung thêm, “tao cũng vậy.”

“Cái gì? Tại sao vậy? Ông chủ?” Max thực sự không hiểu nổi rốt cuộc chuyện này là như thế nào.

“Ha ha,” Soares không nhịn nổi cười phá lên, “uổng cho mày đi theo ông chủ bao lâu, đến cả ông chủ mày dùng kếsách gì cũng không nhìn ra được à?”

“Gì…gì ạ? Dùng kế?” Max đần thối mặt, muốn ngu bao nhiêu thì có ngu bấy nhiêu, nhưng trong vẻ ngu ngốc ấy lại có chút đáng yêu nữa.

Merkin cười khùng khục, nét đắc ý lộ rõ trên mặt. Soares lên tiếng giải thích: “Có kẽ, từ lúc ở đáy cái hồ Cánh cửa sinh mệnh gì đó, anh không giết thằng lùn Đa Cát kia luôn mà lại nhốt nó trong lao ngục, là đã có chuẩn bị rồi đúng không, Ben?”

Merkin kiêu ngạo nói: “Chuyện gì cũng bị anh nhìn thấu hết cả.”

Soares nói: “Bởi vì chuyện ấy không phù hợp với thái độ làm việc của chúng ta, muốn thằng lùn ấy câm miệng, cho nó một viên đạn là giải quyết luôn vấn đề rồi, cần gì phải tốn công tốn sức, để hắn chết từ từ trong ngục nước, đây là cách làm rất kém cỏi. Phải biết là, chỉ cần có nước, một người có thể sống đến bảy tám ngày, chắc chắn là anh đã tính toán trước thời gian bọn tên Trác Mộc Cường Ba kia đến Cánh cửa Sinh mệnh mà sắp xếp con cờ này.”

Merkin nói: “Tiếp đi”

Soares lại nói tiếp: “Lúc ấy anh đã sắp sẵn đường lui cho mình, cũng tức là hai sự lựa chọn. Thứ nhất, bọn Trác Mộc Cường Ba không thể đến đó, không phát hiện ra Đa Cát, vậy thì chúng ta đi tìm bản đồ, tự tìm đường đến cái Bạc Ba La thần miếu kia; thứ hai, bọn Trác Mộc Cường Ba kịp thời xuất hiện, cứu Đa Cát, đồng thời biết được hướng đi của chúng ta, cũng đến được Đảo Huyền Không tự. Tới khi ấy thì chúng ta đã có thể lựa chọn là tự mình lấy bản đồmang đi hay là để chúng lấy bản đồ đi rồi.”

Max rât muốn hỏi: “Cho bọn chúng cướp bản đồ thì có lợi gì cho chúng ta,” nhưng hai ông chủ đang nói chuyện, hắn biết rất rõ khi nào thì mình nên đặt câu hỏi, khi nào thì nên câm cái mõm lại.

Merkin nói: “Anh bắt đầu nghi ngờ từ lúc nào thế?”

Soares nói: “Từ lần bắn dây thừng đầu tiên. Anh không để lại người canh gác, lúc đó tôi đã cảm thấy việc này không phù hợp với tác phong hành sự của anh rồi. Sau đó ở tòa tháp ngược thứ mười hai anh cũng không có ý định để người lại, cả lần bắn dây thừng thứ ba cũng vẫn là như vậy, biết rõ bọn chúng đã đuổi đến nơi rồi, anh vẫn ung dung điềm tĩnh như không, lúc ấy tôi đã bắt đầu nghi ngờ rồi. Còn nhớ chuyện tôi hỏi anh trước cánh cửa lớn của cung điện ba tầng không?”

Merkin gật gù: “Ừm, thì ra là bắt đầu từ lúc đó. Thực ra bản thân tôi cũng rất mâu thuẫn, không biết rốt cuộc nên chọn con đường nào thì hơn.”

Soares nói: “Là những cơ quan hiểm ác trong Đảo Huyền Không tưk đã giúp anh hạ quyết tâm này đúng không. Tôi thấy khi không phát hiện ra bất cứ thứ gì trên cái đàn tế đó, mặc dù ngoài miệng anh vẫn mắng chửi, nhưng ánh mắt lại rất cao hứng.”

Merkin cười đáp: “Quả nhiên là có mắt cú vọ. Không sai, tôi hy vọng bọn chúng có thể lấy được bản đồ, vì thế khi lão già lạt ma Á La kia tỏ vẻ chú ý đến tấm bản đồ, tôi liên quyết định luôn, lập tức nghĩ cách để lão cướp được nó. Lúc đấu với lão tôi đã cố ý lộ ra mấy sơ hở, quả nhiên là lão đã trúng kế, giờ nghĩ lại chỉ sợ lão vẫn vui đến khó mà ngủđược mất.”

Max tỏ vẻ nghi hoặc. Soares nhấp ngụm trà rồi nói: “Tao biết mày đang nghĩ cái gì Max ạ. Mày đang nghi, tại sao ông chủ phải giở lắm trò thế làm gì, cuối cùng lại vẫn để kẻ địch cướp mất bản đồ, phải không? Để tao nói cho, không phải là mày không biết, ông chủ mày đã cài cắm người nằm vùng trong đám ấy rồi, nhất cử nhất động của chúng làm sao giấu nổi chúng ta? Lần này cố ý rời khỏi Trung Quốc, chính là để chúng có cảm giác an toàn giả tạo đó thôi. Mày thử nghĩ mà xem, cơ quan trong Đảo Huyền Không tự đó lợi hại như thế, vậy thì tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu sẽ gian khổ khó nhọc đến chừng nào, chúng ta cần quái gì phải mạo hiểm quá vậy? Chuyến đi Đảo Huyền Không tự lần này chúng ta làm tiên phong mở đường cho chúng, lần sau thì đến lượt chúng phải mở đường lớn cho bọn ta rồi. Ừm, trà này ngon lắm, pha trà giỏi lắm, Max.”

Max lẩm bẩm: “Nhưng mà, lần này hy sinh cũng hơi nhiều một chút.”

Soares vui vẻ bật cười: “Hừ, thằng Max này trở nên nhân từ từ bao giờ vậy? Cái đám ấy là ai chứ? Bọn chúng chẳng qua là một bọn bán mạng đổi tiền mà thôi, chỉ cần có người cho tiền, bảo chúng nó giết mày luôn cũng chẳng ngại ngần gì đâu. Loại người này có bớt đi vài thằng cũng chẳng can hệ gì, bớt đi một khoản chi tiêu thôi. Hơn nữa, đây cũng là bố trí của ông chủ mày mà, lần này cố ý tỏ ra yếu thế hơn với kẻ địch, chứ thực ra, thực lực chân chính vẫn hoàn toàn chưa sử dụng đến đâu, phải không Ben?”

Max nói: “Nhưng mà, tôi vẫn còn một điểm chưa được hiểu cho lắm. Ông chủ, đâu phải chúng ta không có người, tại sao lần này chỉ dùng bọn Hồ Lang thôi? Tôi cũng nhìn ra được, lần này chết nhiều thủ hạ như thế, thằng Tây Mễ ấy sau lưng chắc là bất mãn lắm.”

Merkin cười gằn lạnh lẽo: “Nhưng hắn cũng không dám làm trái ý tao, không phải vậy à? Tao chính là muốn thủ hạ của hắn bớt đi mấy thằng đấy.”

Soares ở bên cạnh nói: “Chẳng lẽ mày vẫn chưa nhìn ra à? Max, đám Hồ Lang ấy đối với ông chủ của chúng mày mà nói, dùng tốt thì là một thanh kiếm sắc, dùng không tốt thì có thể tự làm mình bị thương. Bọn chúng vốn đã là một băng nhóm, mà trong băng nhóm của chúng, tên cầm đầu Tây Mễ đó mới là người phát ngôn, con nhện đã được huấn luyện đặc biẹt ấy rất khó khống chế, nếu để chúng lớn mạnh lên thì chỉ có hại chứ không có lợi cho kế hoạch của chúng ta đâu. Giờ thế lực của Hồ Lang đã đè nén cho bọn tử từ nước ngoài kia không ngóc đầu lên nổi rồi, vì vậy ông chủmày mới cần phải áp chế bọn đấy, để hai lực lượng này giữ được cân bằng. Hơn nữa cho dù cả hai lực lượng này đều đi tong hết thì cũng chẳng can hệ gì, đâu có ảnh hưởng gì đến chúng ta đâu.”

Merkin liếc mắt nhìn Soares vẻ không hài lòng, đoạn bảo với Max: “Ở đây không còn chuyện của mày nữa, ra ngoài trước đi.”Max biết điều lui ra, chỉ là nếu Merkin trông thấy ánh mắt của hắn lóe lên trong khoảnh khắc cánh cửa sập lại, nhất định là sẽ vô cùng kinh ngạc.

Soares dửng dưng như không: “Sao vậy? Không vui vì tôi nói hết kế hoạch của anh ra à? Cái đuôi theo anh mười mấy năm rồi mà vẫn chưa yên tâm hả?”

Merkin lắc đầu: “Thằng Max ấy không ngu xuẩn như anh thấy đâu, theo tôi bao nhiêu năm rồi, nó rất hiểu tôi thích cái gì, hỏi như vậy, chẳng qua là để làm vui lòng tôi thôi. Sự thực là, sau khi tấm bản đồ đó bị mất, tôi đã dự định chỉsử dụng Hồ Lang thôi.”

“Ừm” Soares trở nên nghiêm túc, điều này thì y cũng chưa hề nghĩ đến. “Ý anh là…”

“Hành trình của Max là do tôi đích thân sắp xếp, như vậy mà cũng bị cảnh sát Trung Quốc để ý à, không thể nào có chuyện này được!” Merkin nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Soares nở một nụ cười khinh miệt: “Chúng ta đã có thể tìm được người tiết lộ tin tức trong đội ngũ của chúng, vậy thì nói không chừng cảnh sát Trung Quốc cũng có thể cài cắm một hai cái đinh bên phía chúng ta.”

Soares phân tích: “Chia ra làm hai nhóm, chỉ định hướng đi cho một nửa số người, vậy là những kẻ không tham gia hành động lần này không thể báo cáo tường tận hành trình và những sự việc chúng ta gặp phải với bọn cảnh sát Trung Quốc. Nói như vậy có nghĩa là khi ở trong động bọ cạp, anh để tất cả chạy tản ra không phải là quyết định tình thế, mà là đã nghĩ đến trước rồi, chỉ đang đợi một thời cơ thôi đúng không? Anh chia chúng ra thành từng nhóm từng nhóm nhỏ, vậy thì càng dễ chốt được xem thằng nào bán tin tức. Nếu thằng thám tử ấy cho rằng thân phận đã bị lộ hoặc thấy không cần thiết phải theo chúng ta nữa, hắn sẽ nhân cơ hội này để giả chết mà quay lại với phía cảnh sát Trung Quốc, đây mới chính là mục đích của anh.”

“Không cần chiến đấu mà khuất phục được sẽ địch, đó mới là thượng sách.” Merkin như cười mà không phải cười, trong đầu hồi tưởng lại lúc ông nội hắn sắp qua đời. Cũng ở trong gian phòng này, ông già vươn đôi tay run rẩy ra, ôm chặt lấy hắn, ngước mắt lên nhìn hắn, giọng nói ấy sao mà kiên định: “Nhớ cho kỹ, Bạc Ba La thần miếu là thuộc về chúng ta, phải tìm thấy nó! Chớ để cho bất cứ kẻ nào tranh giành với cháu! Hãy nhớ kỹ dòng họ quang vinh của cháu…Merkin!”

Soares hơi ngạc nhiên nhìn Merkin. Người ở trước mắt y lúc này toát lên một vẻ cao thâm khó dò. Đây mới chính là Cáp Lửa, con người sở hữu trí tuệ và sự giảo hoạt như loài ma quỷ tà ác. Cả một bọn tự xưng là Hồ Lang với Nhện Xanh trước mặt hắn, cơ hồ chẳng đáng nhắc đến làm gì. Hắn không tin bất cứ người nào, và bất cứ người nào cũng không thể đoán biết được rốt cuộc trong lòng hắn đang nghĩ gì.

“Ben” Soares nói, “anh có thể cho tôi biết, cho nổ Đảo Huyền Không tự rốt cuộc là có mục đích gì không?”

Merkin nói mập mờ: “Tôi đã biết kết quả rồi, vậy thì không cần để lại bất cứ đầu mối gì nữa.”

Soares còn đang định truy vấn tiếp thì Merkin lại nói: “Còn một việc nữa. Anh biết không, lúc đụng độ với lão già Á La ấy, lão có nói với tôi cái này…13 kỵ sĩ Bàn Tròn!”

“Cái gì?” Soares kinh ngạc đến suýt chút nữa thì đánh rơi cả chén trà xuống đất, bàn tay cầm đĩa trà cũng không vững nữa, đĩa và tách phát ra những tiếng “canh canh canh!” theo tiết tấu.

“Lão nói vậy là có ý gì? Muốn dùng 13 kỵ sĩ Bàn Tròn để dọa chúng ta chắc? Rốt cuộc là chúng đã biết được những chuyện gì rồi?” Soares không còn giữ được sự lạnh lùng thờ ờ trước sau như một nữa, trong ngữ điệu đã để lộra vẻ kinh hoảng, gương mặt biến dị của y cũng vặn vẹo lạ thường.

Merkin đáp: “Tôi thấy không giống cho lắm, chắc là chúng thu được một số thông tin về chúng ta qua đường nào đó, rồi cho rằng chúng ta có vẻ quan hệ với 13 kỵ sĩ Bàn Tròn thôi. Anh nói xem… liệu bọn chúng có cho rằng chúng ta chính là 13 kỵ sĩ Bàn Tròn không?”

Soares ngẫm nghĩ lại, đoạn nói: “Anh nói cũng phải đấy, hồi trước cơ cấu còn kiện toàn, chúng ta cũng vừa hay có mười ba người mà. Thử nói xem, cấp trên sắp xếp như thế, liệu có phải chính là muốn kẻ địch hiểu lầm rằng mỗi nhóm đều là 13 kỵ sĩ Bàn Tròn hay không nhỉ?”

Sắc mặt Merkin sầm xuống: “Không biết nữa, tôi chưa bao giờ hỏi đến chuyện của cấp trên. Anh biết không, lúc đó khi lão nói ra cái tên này, tôi cũng giật thót minh, đến nỗi trong lúc chiến đấu hoàn toàn không thể khống chế được nhịp độ, vốn còn định quần với lão một lúc nữa, không ngờ nhanh như thế đã bị cướp mất bản đồ rồi, thật không phục chút nào. Lần sau gặp lại lão, nhất định tôi phải đấu một trận ra trò mới được.”

Soares an ủi: “Nói cũng phải, chỉ riêng một kẻ định đoạt sách lược thôi đã khiến chúng ta kinh hồn bạt vía rồi, huống hồ là những kẻ đó.” Nói đoạn y cúi đầu thầm nhủ: “Ben, có lẽ anh còn chưa biết, tên đầu bạc Sean kia, cũng ít nhiều có quan hệ với chúng ta đó. Hừ, anh có nhiều chuyện giấu giếm như vậy thì tôi cũng tạm thời không nói với anh chuyện này.”

Merkin dựa người trước cửa sổ, nhìn ráng mây đỏ, hồ nước xanh, cất tiếng hỏi Soares: “Lần này đám kia bịthương rất nặng, tôi thấy không năm ba tháng thì không ra viện nổi đâu, thêm nữa là chúng cũng cần thời gian để diễn dịch bản đồ ra nữa, cả một kỳ nghỉ dài như vậy anh có dự định gì không?

Soares đáp: “Tôi không nhàn rỗi được như anh, tôi còn phải trở về Munich để chứng minh tính khả thi của luận chứng động thực vật phân hóa và dung hợp tiến hóa.”

Merkin thờ ơ cười cười nói:”Lý luận này anh đã nghiên cứu bao nhiêu năm rồi, có thể đưa ra kết luận chưa vậy?”

Soares nói: “Trước kia thì chưa, nhưng lần này thì khác.” Y lấy trong túi ra một mẩu rễ cây như que diêm, ngâm vào tách trà, rễ cây liền phình ra dữ dội, không ngừng ngọ nguậy như con sâu đo.

Merkin kinh hãi kêu lên: “Đây không phải là…”

Soares gật đầu: “Đúng thế, chính là thứ chúng ta gặp phải bên trong thông đạo, kho không có nước hoặc thiếu nước, nó dùng trạng thái thực vật để duy trì tính chất và trạng thái nguyên thủy của mình, có thể sống trên nghìn năm hoặc lâu hơn nữa, một khi gặp phải lượng nước đầy đủ dôi dư, sẽ lập tức tràn đầy sức sống như cơ thịt. Mặc dù tôi vẫn chưa biết chúng tiêu hóa hấp thu vật săn như thế nào, nhưng phương thức săn mồi của chúng thì bọn ta đều đã được nếm qua rồi còn gì.”

Merkin đứng lên mỉm cười nói: “Được rồi, chúc anh thành công, đây sẽ lại là một tin tức kinh thiên động địa đấy.”

CỔ CÁCH KIM THƯ

Một tháng sau, số lần đội trưởng Hồ Dương đến thăm thưa dần. Lữ Cánh nam và lạt ma Á la dường như hồi phục rất nhanh, giờ đã hoàn toàn bình thường như chưa từng xảy ra chuyện gì. Trác Mộc Cường Ba và Đường mẫn mất máu quá nhiều, trong thời gian ngắn không thể bồi bổ cho lại được, mặc dù đã có thể xuống giường đi lại, nhưng bác sĩ cảnh cáo họ không được vận động mạnh; xương gãy ở tay chân bốn người Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang và giáo sư Phương Tân cũng cần thêm thời gian để hồi phục, đặc biệt là giáo sư Phương Tân, tuổi tác đã cao, tốc độhồi phục cũng chậm hơn một chút.

Vì cả đám thương bênh binh này khó có thể hồi phục nhanh chóng, không hiểu Lữ Cánh Nam đã sử dụng đến thếlực nào mà giành được cả gian phòng bệnh bên cạnh phòng của họ làm văn phòng làm việc. Ở đó, cô giữ liên lạc với các nhóm chuyên gia ở khắp nơi, gửi những tư liệu cho họ sàng lọc, phân loại, phối kết hợp, để cuối cùng lại tập hợp về tay. Nghe Nhạc Dương nói, anh chàng này nhìn thấy rất nhiều cặp tài lieụe được ôm vào phòng làm việc lâm thời của Lữ Cánh nam.

Hôm sau, Trác Mộc Cường Ba vừa mới xuống giường được đã vội vã đi thẳng vào văn phòng của Lữ Cánh Nam hỏi dò: “Nghe Trương Lập nói, hành động lần này của chúng ta coi như đã thành công, chúng tôi đã vượt qua bài khảo hạch cuối cùng rồi, có phải vậy không?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Đúng thế, tôi có nói như vậy.”

Trác Mộc Cường Ba liền nói ngay: “Vậy chuyện mà cô đã hứa với tôi …”

Lữ Cánh Nam nói: “Vết thương của anh mới đỡ…”

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Tôi rất nôn nóng.”

Lữ Cánh Nam liền nhoẻn miệng cười nói với Trác Mộc Cường Ba: “Chuyện mà tôi dã hứa, tự nhiên là sẽ thực hiện.” Nói xong, cô liền đứng dậy mở chiếc tủ sau lưng, bên trong sắp xếp gọn gàng những tài liệu của chuyên gia mà Trác Mộc Cường Ba khao khát đã lâu.

Trác Mộc Cường Ba sải chân lên trước, đang chuẩn bị giằng lấy đồng tư liệu, chợt bị Lữ Cánh Nam bước trước một bước chặn ngay trước mặt. Lữ Cánh Nam cảnh cáo gã: “Nhớ cho kỹ, có không biết bao nhiêu tổ chức nước ngoài đang thèm muốn nhỏ dãi những tư liệu này đấy, nội dung chỉ có thể cho các thành viên trong nhóm cùng xem, hơn nữa đây là bệnh viện nhiều người qua lại, các anh muốn xem tư liệu thì phải đến văn phòng này của tôi mà xem. Tư liệu ở đây đều được sắp xếp đánh mã theo mẫu tự, mỗi lần chỉ được lấy một tập…”

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: “Có vấn đề gì không?”

Gã lập tức đáp: “Không có vấn đề.”

Lữ Cánh Nam gật đầu nói: “Tốt lắm, ngòai ra còn một số tư liệu ở dạng văn bản điện tử, tôi sẽ chép bản gốc vào máy tính của giáo sư Phương Tân, nhưng chiếc máy tính đó cũng không thể mang ra khỏi căn phòng này, thế nào?”

Trác Mộc Cường Ba luôn miệng nói: “Được, được.”

Lữ Cánh Nam vừa tránh ra, gã liền vội vội vàng vàng lấy ngay một tập tư liệu ra tham lam đọc ngấu đọc nghiến.

Số tư liệu do các chuyên gia tổng hợp này có thể nói là hết sức quan trọng đối với bọn Trác Mộc Cường Ba ,mặc dù không được xem trực tiếp bản gốc, mà chỉ là bản sao lại, nhưng so với những gì bọn họ có trước đó thì đã tốt hơn nhiều, nhiều hơn nhiều rồi. Từ đó trở đi, Trác Mộc Cường Ba, giáo sư Phương Tân và mấy người khác cứ ở lì suốt ngày trong văn phòng của lữ Cánh Nam đọc như lúc đói khát, thường thường phải đến sáng sớm mới tắt đèn hoặc cứthế đọc thâu đêm suốt sáng, khiến cá vác sĩ phải ra lời cảnh cáo nghiêm trọng, nói ra những lời kiểu như “nếu mấy người còn tiếp tục như vậy, đảm bảo không quá bao nhiêu ngày nữa thì cũng đừng hòng mà rời khỏi cái bệnh biện này…” hoặc là “cứ tiếp tục như vậy, thương thế của mấy người cả đời cũng không khỏi được…” mới khiến họ bớt đi phần nào.

Có câu “chuyện tốt đi đôi”, chưa đầy một tuần sau, Lữ Cánh Nam lại mang một cái đĩa thần bí đến đặt bên cạnh máy tính của giáo sư Phương Tân, nói với ông: “Đây là tài liệu điện tử của Cổ cách kim thư, kể từ hôm nay, mọi người sẽ được nắm bắt hoàn toàn các tư liệu về Bạc Ba La!”

“Hay quá!” Phòng làm việc vang dội tiếng hoan hô.

Lữ Cánh Nam bắt đầu thấy hối hận về quyết định của mình. Bây giờ cô khong còn tìm được chỗ ngồi trong chiín phòng làm việc của mình nữa, không biết làm saol đành phải rời khỏi văn phòng sang bên phía phòng bệnh chờ đợi. Có một người không quá sốt sắng với đám tư liệu ấy, đó chính là lạt ma Á La, ông thường chỉ ngồi trong phòng bệnh tĩnh tọa suy tư. Bước chân nhẹ nhàng của Lữ Cánh Nam không qua nổi đôi tai lạt ma Á La. Đại sư nhắm hờ mắt nói: “Không ngờ lại bị đẩy ra khỏi chính phòng làm việc của mình, chuyện này lúc đầu con cũng không nghĩ đến phải không?”

Lữ Cánh Nam cẩn thận liếc sang phía phòng làm việc rồi mới hạ giọng nói: “Vâng, thưa Á La đại nhân.”

Lạt ma Á La nói: “Ta cứ cảm thấy con giao tư liệu cho họ lúc này e là quá sớm, phải không? Đây là bệnh viên, ta vốn tưởng rằng con sẽ đợi đến khi nào trở về căn cứ mới lấy số tư liệu đó ra nữa cơ đấy.”

Lữ Cánh Nam nói: “Chính vì đang ở trong bệnh viện thế nên con mới mang số tư liệu ấy ra.”

“Ồ!” Lạt ma á La mở bừng hai mắt, mỉm cười tán thưởng.

Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: “Những tư liệu sao chép đó đều được sang lọc kỹ lưỡng, bệnh viện là nơi rất thích hợp để truyền tin tức, nếu Á La đại nhân có nghi ngờ ai trong số họ, thì đây là một cơ hội rất tốt. Điều con lo lắng nhất là, nếu như không có ai truyền tin tức ra ngoài, khi ấy mới đáng sợ.”

Lạt ma Á La biến đổi nét mặt nói: “Ý của con là, nếu giả định đích xác là có nội gián, ở trong hoàn cảnh này mà hắn cũng có thể nhẫn nhịn trước cám dỗ, không truyền bất cứ tin tức nào ra ngoài, vậy thì sự bình tĩnh và năng lực ứng biến của kẻ ấy, chắc chắn vượt quá dự đoán của chúng ta?”

Lữ Cánh Nam nghiêm nghị gật gật đầu.

Lạt ma Á La nói: “Con lo lắng…sự an toàn của cậu ấy?”

Lữ Cánh Nam vội nói: “Không.”

Lạt ma á La mỉm cười, lại nhắm nghiền mắt lại, giây lát sau mới nói: “Sức khỏe ta đã hoàn toàn hồi phục, có lẽngày mai phải trở về báo cáo tường tận tất cả cuộc hành triìn của chúng ta rồi. Không, chiều nay ta đi luôn thì tốt hơn.”

Lữ Cánh Nam hiểu ý, nói: “Như vậy, đại nhân sẽ có thể ở trong bóng tối…”

Lạt ma Á La giơ một tay lên, ra hiệu cho Lữ Cánh Nam khong cần nói nhiều. Trong lòng ông cũng dấy lên cảm giác lo lắng, bao nhiêu đầu mối đều cho thấy Merkin biết tin họ đi chây Mỹ là do lọt từ chỗ họ mà ra, hơn nữa người này tuyệt đối không thể là tên Ngưu Nhị Oa chạy thoát tối hôm đó được. Không một ai có thể lại gần ông trong phạm vi hai mươi mét mà không bị ông phát giác, điểm này thì đại sư có thể tự tin mà khẳng định, trừ phi kẻ ấy sớm đã nấp ở đó từ trước, hoặc giả, đã sử dụng đến một số trang thiết bị hiện đại. Mà cả hai việc này, đều phải là người phe mình mới thực hiện được. Vấn đề hiện nay là kẻ tiềm phục bên cạnh ông rốt cuộc là ai? Mặc dù Lữ Cánh Nam cho rằng Nhạc Dương không thể nào bán đứng quốc gia, nhưng lạt ma Á La thì không nghĩ như vậy, một vị trưởng lão đã từng nói, mỗi một người đều có khả năng bị mua chuộc, chỉ cần tìm được phương pháp mua chuộc hắn mà thôi. Hơn thế nữa, nếu kẻ ấy có năng lực tương đương với Nhạc Dương, hoặc giả còn cao minh hơn Nhạc Dương nữa…Không, đáng sợ quá, lạt ma á La vôi ngăn mình không nghĩ tiếp nữa.

Ở trong phòng làm việc, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba quả thực hết sức phấn khích. Trong máy tính toàn là ảnh chụp kỹ thuật số của Cổ cách kim thư, đây có thể nói là tư liệu hàng đầu rồi. Kim thư được viết trên cuộn giấy dài chừng một thước trông như tấm hoành phi nhỏ, các chữ vàng mặc dù đã cách cả nghìn năm vẫn ánh lên rực rỡ. Trên ảnh có một tầng phản quang mỏng, rõ ràng là đã được chụp cách một lớp kính đặc biệt. Chữ trên Cổ Cách kim thư chi chít, có chữ giống con giun đang bò ngoằn ngoèo,có chữ lại giống tiếng Phạn, đặc biệt là chụp qua mấy ảnh càng giống chữ tượng hình động vật, thoạt nhìn đã khiến người ta mắt hoa đầu váng. Riêng điểm này thì khiến họ cảm thấy hết sức kỳ quái. Vì theo những tư liệu họ tra cứu được, văn tự Cổ cách lẽ ra phải là tiếng Tạng được quy phạm hóa mới đúng, cho dù là kiểu chữ thảo thì cũng không thể giống thế này được.

Giờ đây, bọn họ cuối cùng cũng hiểu ra, tại sao Lữ Cánh nam nhiều lẫn nhắc đến Cổ Cách kim thư, mà lần nào cũng dùng đến chữ “giải dịch” này rồi. bên cạnh có chú thích bằng tiếng Tạng, nhưng chỉ là ghi lại những chữ Cổ Cách đại biểu cho mẫu tự trong tiếng Tạng chứ không dịch hết, những chỗ được dịch ra thành đoạn chỉ có vài đoạn rất ngắn, hầu hết những nội dung đều nằm trong phần Lữ Cánh Nam đã nói với họ rồi.

Giáo sư Phương Tân tìm trong máy tính rồi nói: “Những văn tự này nhìn có vẻ giống với Thiềm thể do người tạo ra Tạng văn, Thôn Di Tang Bố Trát sáng tạo, nhưng lại hỗn tạp với kiểu Hùng Sư thời kỳ giữa thế kỷ IX. Xem vẫn chưa có bản dịch hoàn chỉnh, chúng ta chỉ có thể tự mình dịch lấy vậy thôi.”

Nhạc Dương phàn nàn: “Chắc phải già chết mới xong mất.”

Giáo sư Phương Tân sa sầm mặt nói: “Cậu già bằng tôi không?”

Nhạc Dương vội lè lưỡi quay đi.

Trương Lập cũng nói: “Giáo quan cũng thật là, sao không đưa chúng ta bản dịch luôn đi nhỉ?”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Phiên dịch không phải chuyện dễ, hơn nữa những tư liệu nguyên thủy này tốt nhất là tự mình dịch lấy, vì những người khá nhau thì sẽ đưa ra bản dịch khác nhau. Đây cũng là nguyên nhân tại sao những tư liệu này lưu lạc ở nước ngoài bao lâu như thế mà không người nào tìm được Bạc ba La thần miếu cả. Hơn nữa, có một số thứ nếu không quen thuộc với hoàn cảnh và bầu không khí của Tạng văn nguyên thủy thì căn bản không thể dịch ra được, chẳng hạn như chữ “đạo”trong tiếng Trung Quốc, chính là chữ “đạo” mà Lão Tử nói ấy, cậu dịch sang tiếng Anh thế nào hả?”

Nhạc Dương há miệng, có điều thấy Đường mẫn cũng nhíu mày suy nghĩ, anh chàng bèn thôi không phản bác nữa, nghĩ ngợi một lúc rồi gật đầu thừa nhận: “Giáo sư nói cũng phải.”

Giáo sư Phương Tân lại nói tiếo: “Quan trọng nhất là lý giải của bản thân đối với Tạng văn. Thế này nhé, tôi sẽphân phát các tấm ảnh chụp kim thư ở đây cho mọi người, mỗi người dịch một phần, sau đó lại trao đổi bản dịch cuối cùng một người tập trung thảo luận dưa ra bản dịch cuối cùng vậy thì kết quả sẽ tương đối chuẩn xác. Ngoài ra, phần nào không thể dịch cũng có thể đưa ra đểmọi người cùng thảo luận.” Vừa nói dứt lời, liền nhìn thấy Lữ Cánh Nam đang đứng ngoài cửa, mỉm cười cảm nhận không khí học thuật tích cực sôi nổi của mọi người.

Trương Lập, Nhạc Dương thi nhau phàn nàn trách móc Lữ Cánh Nam. Chỉ nghe cô nói: “Không phải tôi không đưa mọi người bản dịch, mà là căn bản không có bản dịch nào hết. Theo các chuyên gia khảo chứng, thời gian bộ kim thưnày được hoàn thành áng chừng vào khoảng thế kỷ XVII. Người soạn sách cố ý sử dụng kiểu chữ này, chứng tỏ rằng khi ấy thời điểm Cổ Cách diệt vong đã không còn xa nữa, và bọn họ đã chuẩn bị sẵn sàng để ẩn náu, vì đây là một kiểu chữ ẩn. Chỉ riêng chuyện dịch được kiểu chữ ra thoi đã tốn của các chuyên gia thời gia gần một năm. Cho đến lúc này, những nội dung đã phiên dịch được toàn bộ đều ử cả đó rồi đấy, các phần khác mọi người phải tự mình dịch lấy. Đương nhiên, bên phía các chuyên gia cũng đang không ngừng công việc họ đang làm, bất cứ lúc nào mọi ngời cũng có thể nhận được sự trợ giúp từ phía họ, hoặc là… giúp đỡ ngược lại họ.”

Nhạc Dương lấy làm kỳ quái hỏi: “Đã tìm được mẫu tự đối ứng trong tiếng Tạng của cái kiểu chữ gì gì này rồi, chẳng lẽ lúc dịch ra cẫn còn khó thế ư?”

Lữ Cánh nam mỉm cười nói: “mọi người thử dịch thì biết ngay thôi mà.” Kế đóa cô vỗ vỗ tay tuyên bố: “Các vị, lạt ma Á La có một số chuyện bên phía tôn giáo, phải xa chúng ta mấy ngày, giờ đến nói chuyện với mọi người một chút.”

Lạt ma Á La xuất hiện ngoài cửa. Mọi người nói chuyện mộc lúc. Trác Mộc Cường Ba nhớ đến những bức bích họa trông thấy trong Đảo Huyền Không tự, liền nhờ đại sư hỏi thăm giúp về thú chiến. Ăn xong bữa trưa, đại sư liền rời khỏi bệnh viện.

Mấy ngày sau đó, dưới sự chỉ đạo của giáo sư Phương Tân, cả nhóm bắt đầu phiên dịch “Thiềm Sư văn” (Tiếng cóc sư tử - tên do Nhạc Dương đặt). Bọn họ nhanh chóng hiểu ra tại sao Lữ Cánh Nam nói các chuyên gia tốn cả năm trời mới chỉ dịch được mấy đoạn ngắn ngủn như vậy. Mặc dù những văn tự này vẫn tuân theo quy tắc bốn mẫu âm, ba mươi mẫu tự của Thôn Di Tang Bố Trát, nhưng bút pháp thì quả thực quá sức phức tạp. Nhạc Dương đã đem so sánh với các thể Tạng văn khác, nói rằng kiểu chữ này còn khó nhận ra hơn cả chữ siêu ngoáy nữa. Đầu tiên, họ dùng bút nét nhỏ khoanh từng mẫu tự lại, sau dó tìm mẫu tự đối ứng trong bản dịch các chuyên gia cung cấp, rồi chép lại những mẫu tự đã dịch được bằng tiếng Tạng quy phạm, sau khi chép hết thì công việc dịch thuật mới chính thức bắt đầu. Dù là như vậy nhưng vẫn thường xuyên xảy ra nhầm lẫn, toàn là kiến bò tranh ăn, vô số điểm chấm đen nhỏ chập lại với nhau, thọat nhìn thì chữ nào cũng giống chữ nào, phải trợn trừng mắt lên nhìn thật kỹ mới phân biệt được. Về sau mọi người mới phát hiện ra, đánh dấu chữ rồi tìm từng mẫu tự đối ứng chỉ hơi phiền phức một chút, không phải là việc khó khăn nhất, khó khăn thật sự nằm ở bản thân việc giải dịch, chẳng hạn như đoạn mở đầu mà các chuyên gia đã dịch sẵn.

(Một cuộc đối thoại vào khoảng năm 860-870 sau công nguyên) – chú thích của chuyên gia. Con trai của Tạng vương cuối cùng Lãng Đạt Mã, Vi Tùng đã trưởng thành, mẹ Vi Tùng là Sát bang Tát bệnh tình nguy kịch, gọi con trai đến bên cạnh nói: “Con à, giờ đây cục thế hỗn loạn, khắp nơi rối ren bất ổn, tôi tớ bỏ đi, đại tướng chết trận, con, con là người kế thừa duy nhất của Thổ Phồn vương thống, nhất định phải giữ cho được huyết mạch của vương thất. Đi vềphía Tây đi, nơi ấy mới có hy vọng cho con phục quốc.”

Vi Tùng đáp: “Phía Tây là đất dữ của Tà giáo, dù nước mất nhà tan, cũng không đi về phía Tây.” Vi thị chết.

Chỉ riêng trong đoạn đối thoại đơn giản này, không ngờ đã bao hàm rất nhiều nội dung phức tạp. Ví dụ như “tôi tớ”, các chuyên gia giải thích là về mặt ý nghĩa của chữ thì “tôi tớ” có ý chỉ “tôi tớ của mặt trời” hay “tôi tớ của ánh sáng”, còn giáo sư Phương Tân thì cho rằng đó là để chỉ Đạo quân Ánh sáng. Đại tướng có lẽ là người ủng hộ Vi Tùng trong triều đình lúc đó, tức đại tướng Thượng Tư La, người này đã bị đại tướng phòng thủ biên cương Luân Khủng Nhiệt, là người ủng hộ một vị Tân phổ khác giết chết; phía Tây có lẽ là chỉ đất Tượng Hùng; Tà giáo đương nhiên chính là Bản giáo rồi. Các chuyên gia có chú thích đặc biệt, rằng sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật, hai người con của ông ta đều tin thờ Phật giáo. Vi Tùng thì từ bốn tuổi đã bắt đầu ngăn cấm diệt Phật, năm tuổi đã quy y Phật giáo. Giáo sư Phương Tân cho rằng, đây là kết quả giáo dục của người lớn, nhưng người đó là ai thì không thể biết được, có lẽ là đại thần, hoặc có lẽ là thầy giáo của y. Điểm quan trọng nhất là, nếu đoạn đối thoại này có thực, thì vương thất Thổ Phồn, kể từsau thế hệ của Vi Tùng bắt đầu dần dần dịch chuyển về phía Tây trong chiến loạn liên miên, việc này có khả năng không phải do quân địch ép tới, mà là một cuộc rút lui có kế hoạch, và đến cuối cùng thì dẫn đến các điều kiện cho CổCách lập quốc.

Đoạn đối thoại được đưa vào riêng rẽ, đặt ngay phần đầu của cả quyển trục, hoàn toàn không liên quan gì đến nội dung phía sau. Nhưng lý giải đoạn đối thoại này các chuyên gia đã ghi rất rõ ở phía dưới, Vi Tùng bị đại thần sát hại, con trai y là Bối Khảo Tán xây dựng chính quyền ở vùng Nhật Ca Thích, về sau bị quân khởi nghĩa bình dân giết chết, con của Bối Khảo Tán là Cát Đức Ni Mã Cổn tuân theo di huấn của tổ tiên đến vùng A Lý, Phổ Lan, kiến quốc lập nghiệp. Sau đó Cát Đức Ni Mã Cổn liên hôn với tù trưởng A Lý, rồi chia đất cho ba con. Cổ Cách vương mở rộng biên cương, phần giải thích nội dung đã dài hơn nguyên văn mấy chục mà có khi là cả trăm lần. Nhưng còn chuyện hy vọng phục quốc mà Vi thị nhắc đến, các chuyên gia lại không đề cập, rõ ràng là không có bằng chứng hoặc tư liệu nào khác. Theo phân tích của giáo sư Phương Tân, di huấn của tổ tiên đó được truyền cho đời sau, nhưng “hy vọng” là chỉthứ gì, thì đã bị dần quên lãng theo thời gian rồi. Về điểm này, các chuyên gia cũng có nhận định y như vậy.

Càng lâu về sau, mọi người càng nhận ra công việc dịch thuật này vô cùng khó khăn. Có rất nhiều nội dung đòi hỏi dịch giả phải hiểu biết tương đối về thời kỳ lịch sử chiến loạn thời đó mới có thể dịch được một cách chuẩn xác. Một danh hiệu, một địa danh, một tên người, nếu không hiểu biết về giai đoạn lịch sử này thì căn bản không thể làm được. Cũng may các chuyên gia đã khảo chứng rất nhiều, đồng thời giáo sư Phương Tân vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với các chuyên gia Tạng học, được họ giúp rất nhiều điều bổ ích. Tuy nhiên trong Cổ cách kim thư có rất nhiều từ vựng đến cảchuyên gia cũng phải bó tay chịu thua không hiểu. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cho đến giờ bộ Cổ cách kim thư vẫn chưa có bản dịch đầy đủ. Các chuyên gia còn nói, bộ kim thư này cũng không phải bản hoàn chỉnh, mà chỉ là nửa đầu thôi.

Một tuần trôi qua, mắt Trương Lập và Nhạc Dương đều sưng húp lên như gấu mèo. Với lượng kiến thức lúc này của họ, mới chỉ có thể chuyển những ký hiệu khiến người ta nhìn mà hoa mày chóng mặt kia thành Tạng văn hiện hành, còn chuyện dịch nội dung văn bản thì bọn họ thường xuyên như thế này…

Trương Lập cầm tấm ảnh lên nói với Nhạc Dương: “Tôi cảm thấy đây là một cái tên người.”

“Anh thấy vậy là đúng rồi.”

“Phía sau nó có một địa danh, phía trước là thời gian, dùng cái lịch gì gì để biểu thị ấy, Thời Luân lịch hay là Hầu La lịch?”

“Anh thấy vậy là đúng rồi.”

“Nhưng tôi không biết bối cảnh lịch sử của người này, địa danh cũng chẳng biết ở đâu nữa. Một ngày nào đó có ai đấy đi đến đâu đấy là chuyện gì đấy hả? Dịch như thế có được không?”

“Anh đừng hỏi tôi, tôi không hiểu đâu.”

“Chà, nếu là Thổ Phồn sử thì tốt quá rồi.”

“Không có Thổ Phồn sử đâu. Di huấn của Tùng Tán Can Bố đều hết sức vụn vặt lẻ tẻ, còn cái gì mà Hồng sử với Thanh sử,đều là người mấy trăm năm sau viết cả thôi.”

“Thì có Tượng Hùng sử cũng được mà.”

“Cái đó thì càng không thể nào, tốt nhất là anh nên bỏ hy vọng ấy đi.”

“Có sử sách nào khác của Cổ Cách làm đối chứng cũng được mà.”

“Không có Cổ Cách sử nào khác đâu, thứ chúng ta có đây chính là cuốn Cổ Cách sử duy nhất, nói không chừng các chuyên gia khác còn đang đợi tư liệu do chúng ta dịch ra nữa đấy.”

“Giáo sư, tên người và địa danh này và cả thời gian này nữa, giúp cháu tra lại một chút, xem xem các chuyên gia có chỉ thị gì không?”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Các chuyên gia nói, họ cũng không biết đâu.”

Ở bên kia, Trác Mộc Cường Ba cũng gặp phải một từ hết sức quái dị, liền hỏi: “Thầy giáo, thầy lại xem từ này đi, lần trước cũng xuất hiện rồi, linh hồn bảo vệ kiên định, cao quý, thế này thì làm sao giải thích được.”

Giáo sư Phương Tân nghiêng người lại xem, nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Ngữ pháp không đúng, điều chỉnh lại thứtự một chút, có lẽ một lòng trung thành bảo vệ linh hồn, cậu thử xem như vậy có liên mạch được không, kỳ lạ thật, đáng lẽ nó phải là một danh từ mới đúng, không, không phải như vậy…”

“Thủ hộ linh, thông thường chúng tôi đều dịch một cách đơn giản như vậy.” Lạt ma Á La đứng ngoài cửa nói.

“Đại sư Á La, ngài đã trở về rồi!” Bọn Nhạc Dương, Trương Lập vội nhao nhao đứng lên chào, hỏi thăm rối rít, thực ra chỉ là muốn lười nhác một chút. Lữ Cánh Nam cũng không ngăn trở bọn họ. Chào hỏi lạt ma Á La xong, cô lại tiếp tục vùi đầu vào đống hồ sơ văn kiện.

Duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào từ ngữ khó hiểu kia. Giáo sư cất tiếng hỏi: “Thủ hộ linh? Từ này tôi đã từng thấy ở một nơi khác, hình như tần suất xuất hiện khá nhiều, liên quan đến cả chiến tranh lẫn việc tế tự. Theo tôi thì ở những phương diện khác nhau, từ ngữ này cũng có những cách giải thích khác nhau, không biết có phải vậy không?”

Lạt ma Á La đón lấy cốc nước Đường Mẫn đưa cho, đến bên cạnh máy tính nói: “Chuyện này giải thích phúc tạp lắm, thực ra cách nói thông tục chính là thụy thú bảo vệ bốn phương, có lúc lại dùng để chỉ một loại trong số đó thôi, như là chiến ngao chẳng hạn.”

Lời này vừa thốt ra, cả bốn phía thảy đều kinh động, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba . Dịch bao nhiêu này nay, lẽnào từ ngữ khó hiểu mà gã gặp phải nhiều lần này lại chính là để chỉ chiến ngao hay sao? Gã vội đứng lên để lạt ma Á La ngồi xuống bên cạnh giáo sư Phương Tân, đồng thời mừng rỡ nói: “Đại sư, ngài đã hỏi giúp tôi chuyện liên quan đến thú chiến chưa vậy?”

Nhạc Dương cũng quan tâm hỏi: “Thú chiến là gì vậy? Còn Thiên châu của chúng tôi đâu?”

Lạt ma Á La ngồi xuống, thấy mọi người đã ngồi vây xung quanh mình, liền nói: “Ừm, Thiên châu thì quên rồi, nhưng không sao hết, sau này tôi còn quay lại nữa, lần này tôi đi là đặc biệt có ý hỏi chuyện liên quan đến thú chiến. Giờ nếu không sợ ảnh hưởng đến công việc dịch thuật của mọi người, tôi có thể nói sơ qua một chút về thú chiến và lịch sửchiến ngao trong truyền thuyết.”

Trác Mộc Cường Ba đương nhiên là không có ý kiến gì, đây chính là điều mà gã muốn biết nhất.

Lạt ma Á La nhấp một ngụm nước, chậm rãi nói: “Tôi hỏi mọi người một câu, vì sao chiến ngao lại được gọi là chiến ngao?”

“Bởi vì chiến tranh. Chúng là loài chó ngao có thể tham gia chiến tranh, có thể chiến đấu.” Trác Mộc Cường Ba đáp.

Lạt ma Á La gật đầu: “Không sai. Vì vậy, nói đến lịch sử của chiến ngao, thì không thể không nhắc đến thú chiến. Thú chiến là một loại mô thức chiến tranh đã xuất hiện từ thời viễn cổ, nhưng khoảng gần nghìn năm trở lại đây đã bịngười đời dần dần cho chìm vào quên lãng. Cường Ba thiếu gia và tôi đã từng trông thấy bích họa liên quan đến mô thức chiến tranh này trong Đảo Huyền không tự. Rốt cuộc thú chiến bắt đầu phát triển từ khi nào, đây là vấn đề không thể khảo chứng. Nhưng thông thường nền văn minh cổ nào lúc manh nha phát triển cũng đều có ghi chép về thú chiến. Có một số loại hình thú chiến vẫn còn gìn giữ được, chẳng hạn như chiến tượng ở Thái Lan, thần ngưu ở Ấn Độ, còn số khác thì dã biến mất trong dòng sông lịch sử, như thú chiến ở Trung quốc chẳng hạn. Thực ra trong những truyền thuyết sớm nhất về thời Tam Hoàng Ngũ Đế đã xuất hiện thú chiến cả rồi. Khi Hoàng đế có chiến tranh với Xi Vưu, đã có sự tích Xi Vưu triệu tập các loài dã thú hung ác trong Thập vạn Đại Sơn ra tác chiến; thời nhà Hạ có thủy tộc xuất hiện trong chiến tranh; thời Thương Chu thì thuần hóa được chim trên trời; đến thời Chiến Quốc, thú chiến đã đạt đến đỉnh cao, xuất hiện cả hải lục không quân liên hợp tác chiến, chim trên trời đấu với chim trên trời, thú dưới đất đấu với thú dưới đất, thủy tộc đấu với thủy tộc; sau đó trở đi thì vai trò thú chiến dần dần mờ nhạt, chỉ thi thoảng chúng mới xuất hiện trong các cuộc chiến giữa Hán và Hung Nô; đến thời Tam quốc, mô thức chiến tranh này lại sống dậy, Trương Giác có thể hoành hành một thuở giữa thời loạn thế chính là vì ý có thể chỉ huy vô số dã thú chiến đấu, còn như Mông Xung Hỏa Ngưu Trận, Hỏa Nha Thiêu Liên Doanh về sau này, cũng đều được coi là mẫu mực của thú chiến, đến thời sau thời nhà Nguyên, việc sử dụng thú chiến mới dần suy tàn, nhưng cũng không tuyệt tích hẳn, vào thời Minh Thanh vẫn còn xuất hiện một trận kinh điển chuột đấu với voi nữa.”

Mọi người đều nghe mà kinh ngạc, rồi trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu mà vẫn lấy làm khó hiểu, đặc biệt là Nhạc Dương và Trương Lập. Hai người này xuất thân bộ đội, đều cho rằng nếu quả thực tồn tại binh đoàn thú chiến thật, thì ít nhất họ cũng phải nghe nói đến, chứ không thể hoàn toàn mù tịt thế này. Đối với những người khác, điều Lạt ma Á La vừa nói đa phần đều là những thứ chỉ có trong truyện thần tiên trích quái hay tiểu thuyết thông tục. Nhưng chiến tượng của Thái Lan và thần ngưu thiên binh của vương triều Khổng Tước bên Ấn Độ thì đúng là sự thật không thểtranh cãi. Thời xưa ở hai quốc gia này, hai loại động vật đó đúng là được phiên vào binh chủng riêng, đã từng lập nên những chiến công hiển hách trên chiến trường. Ở Thái Lan và Ấn Độ, hai loại động vật này vẫn còn được sùng bái kéo dài mãi cho đến ngày nay.

Nhạc Dương hỏi: “Tôi…tôi không hiểu cho lắm, đại sư, nếu thú chiến có uy lực lớn mạnh như thế, tại sao không được vào biên chế chính quy của quân đội đề phát dương mở rộng ra, mà trái lại phải chìm dần vào quên lãng thế?”

Lạt ma Á La nói: “Không sai, đây đúng là một vấn đề khiến người ta khó hiểu. Tôi có thể nói với mọi người một cách đơn giản, ở đây có hai nguyên nhân: thứ nhất, đó là một chức nghiệp đặc thù, cũng từng được coi là một trong những ba chức nghiệp bí truyền của đất Tạng - Thao thú sư, thuật sĩ điều khiển thú!”

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO QUÂN ÁNH SÁNG

“Thao thú sư!” Trác Mộc Cường Ba thầm chấn động trong lòng, lờ mừ có cảm giác như nắm bắt được điều gì đó.

Lạt ma Á La nói: “Đúng vậy. Muốn dùng động vật làm một binh chủng chiến đấu không đơn giản chỉ nói mà được, phải có những người chuyên môn chỉ huy diều khiển bọn chúng, để chúng dựa theo phương sách đã định sẵn mà tiến hành mai phục, tấn công ban đêm, tập kích, bày trận mà không trở ngược lại làm tổn hại đến phe mình, tất cả những việc này đều phải nhờ vào thao thú sư mới thực hiện được. Nói một cách đơn giản hơn, vai trò của họ cũng giống như những người huấn luyện thú dạy hổ nhảy qua vòng, cá heo húc bóng trong rạp xiếc vậy, nhưng điểm khác biệt là công việc của họ khó khăn hơn rất nhiều. Giữa chiến trường, trong chớp mắt đã có ngàn vạn biến đổi, muốn điều khiển một đám động vật có thể tiến lui như ý, tiến thì về phía trước mà lùi thì về phía sau, hai cánh hợp vây, chia đường xuất kích, diệt từng bộ phận, tiềm phục rồi tập trung, ngoài việc phải hoàn toàn nắm bắt được tập tính và ưu thế của các lòai động vật ra, còn cần những thủ đoạn điều khiển thao túng đặc biệt khác – những thủ đoạn này chính là tuyệt kỹ bí mật không bao giờ để người ngoài biết được của các thao thú sư. Đến giờ, thì tôi có thể nói với mọi người tại sao thú chiến lại dần dần lui khỏi vũ đài lịch sử được rồi. Đó chính là vì các tuyệt kỹ của thao thú sư xưa nay vẫn là đơn truyền một mạch và chỉ truyền miệng. Khi một thao thú sư chết đi mà không có truyền nhân kế thừa, thì cũng đồng nghĩa với một loại tuyệt kỹ điểu khiển thú đã thất truyền. Có thể lấy một ví dụ đơn giản thế này, trước khi triều Thanh tiến vào Sơn Hải quan, kỹ thuật điều khiển chim ưng Hải Đông Thanh của họ đã trải quan năm triểu đại Liêu, Kim, Nguyên, Minh, Thanh, đạt đến mức độ cao nhất của huấn luyện và thuần dưỡng động vật, từ bắt dụ ưng non, đến luyện ưng cất cánh, buộc thừng, giảm béo, thả ưng, cả quá trình hết sức hệ thống và khoa học, có thể nói là đã tổng kết được kinh nghiệm của những thế hệ đi trước, nhưng từ sau khi tiến vào quan nội, chưa đầy một trăm năm, đã không thể tìm đâu ra một người luyện ưng chính thống nữa rồi, càng không cần nói đến chuyện huấn luyện ra được trinh sát tiên phong trên chiến trường- chiến ưng. Không thể nói là người cầm quyền trong triều đình Mãn Thanh không coi trọng, không thích mà nó tự thất truyền thôi. Chỉ đơn giản như vậy thôi, không có nguyên nhân gì đặc biệt cả.”

Bọn Trác Mộc Cường a nghe đến đây, cuối cùng cũng hiểu ra được phần nào. Giáo sư Phương Tân lại hỏi: “Vậy còn nguyên nhân thứ hai?”

Lạt ma Á La mỉm cười đáp: “Nguyên nhân thứ hai càng dễ lý giải hơn. Thú chiến là phải cần đến các loài thú hung mãnh, mà xưa nay chỉ dã thú mới có răng nhọn vuốt sắc, nhưng cùng với sự phát triển và tiến bộ không ngừng của xã hội loài người, các loài mãnh thú sở hữu những vũ khí sắc bén, và sức mạnh đáng sợ đồng thời cũng trở thành kẻ địch lớn nhất của con người, không thể có chuyện ai ai cũng là thao thú sư được, thái độ của người bình thường đối với chúng xưa nay vẫn là…giết chết không tha! Lãnh địa của loài người càng lúc càng mở rộng, số lượng hung cầm mãnh thú cũng mỗi lúc một ít, vậy thì còn thú chiến nỗi gì nữa? Vẫn lấy thí dụ là chim ưng Hải Đông Thanh nhé, những người huấn luyện chim ưng thời đầu còn có thể đem tuyệt kỹ luyện chim ưng truyền cho con cháu, nhưng các thế hệ sau đến con chim ưng trông như thế nào còn chẳng biết, cũng chẳng bắt được con Hải Đông Thanh nào, vậy thì còn huấn luyện làm sao được? tự nhiên là tuyệt kỹ cũng theo đó mà thất truyền thôi, hai nguyên nhân này bổ sung cho nhau, vậy nên muốn trùng diễn lại cảnh tượng trên trời rợp cảnh chim ác chiến, dưới đất dã thú chạy cuồng loạn, các loài thủy tộc làm tắc cả dòng sông thời Xuân Thu Chiến quốc trong thời nhà Thanh là không thể được. Tôi nhớ có một vị thao thú sư từng để lại những lời đầy tiếc nuối thế này: thời thượng cổ, người bị thú bắt nạt, thời trung cổ, người và thú đồng cư, thời hậu cổ, người mạnh thú thưa, còn đến thời chúng ta bây giờ, cái được gọi là thú ấy, đại đa số đã thành động vật tuyệt chủng cả rồi, cho dù có còn lại, thi cũng là loài vật đang mấp mé bên bờ tuyệt chủng. Xã hội con người sẽcàng ngày càng thêm văn minh, mà xã hội văn minh thì sẽ không thể dung chưa được các loài dã thú.”

Nói đến đây, lạt ma Á La ngưng lại nhấp một ngụm nước. Nhạc Dương lấy làm lạ nói: “Theo cách nói của đại sư, cái nghề thao thú sư này từ thời thượng cổ đã có rồi, tại sao lại trở thành cái gì mà ba chức nghiệp bí truyền của Tây Tạng thế?”

Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, chuyện này liên quan đến chủ đề mà chúng ta sẽ nói sau, tôi còn phải giải thích với mọi người thêm một chút nữa. Ít nhất mọi người đã hiểu rõ rằng trong lịch sử đã từng xuất hiện thú chiến và có một chức nghiệp là thao thú sư, nhưng bọn họ đã dần bị tiêu vong. Tuy nhiên, trên cao nguyên này, thú chiến lại đã tìm được mảnh đất phù hợp để phát triển. Cũng không biết bắt đầu từ khi nào, tóm lại là đến thời kỳ Tạng vương Tùng Tán Can Bố, việc sử dụng thú chiến trên cao nguyên đã phát triển đến đỉnh cao, giống như thời Xuân Thu chiến quốc ở vùng Trung Nguyên vậy, chức nghiệp thao thú sư lúc này cũng đạt đến sự đột phá xưa nay chứ từng có, đó chính là thao túng điều khiển một loại động vật tiến lên cùng lúc thao túng nhiều loại động vật.”

Thấy mọi người không hiểu, lạt ma Á La lại giải thích: “Chắc là mọi người vẫn chưa hiểu rõ, trước đó đại đa sốcác thao thú sư đều chỉ hiểu biết, quen thuộc và có thể thuần dưỡng điều khiển một loại động vật nào đó. Chẳng hạn như tổ tiên khai quốc của nước Tần là Tần Phi, ông ta chính là một vị thao thú sư thực sự, kỹ thuật nhìn ngựa và huấn luyện ngựa của ông ta e rằng Bá Nha cũng khó bì nổi. Chính vì giỏi huấn luyện ngựa mà Tần Phi được vua nhà Chu coi trọng, ban thưởng cho cả đất phong, nhờ vậy mới có nước Tần. Còn trong thời kỳ chiến tranh tàn khốc nhất trên cao nguyên Thanh Tạng, những thao thú sư chỉ có thể thao túng một loài động vật đã không thể nào thỏa mãn được nhu cầu của chiến tranh nữa. Vì vậy đã ra đời thế hệ thao thú sư mới, có thể thao túng điều khiển nhiều loài động vật, đồng thời biết rõ nhược điểm của thú chiến đấu của phe đối phương. Từ đó trở đi, những người có hiểu biết về chức nghiệp này đều chỉ coi những nhân vật nắm vững tập tính của nhiều loài động vật khác nhau, trong chiến đấu không những có thể thao túng thú chiến đấu của phe mình, mà còn có thể lợi dụng nhược điểm của thú chiến đấu phe đối phương để phản kích mới là các thao thú sư – thuật sĩ điều khiển thú chân chính. Vì vậy, Tây Tạng cũng được coi là vùng đất phát nguyên của thao thú sư. Còn những con thú chiến đấu tham gia thú chiến trên cao nguyên Thanh Tạng này cũng có danh xưng riêng…”

“Chúng chính là thụy thú bảo vệ bốn phương!” Trác Mộc Cường Ba thốt lên.

Lạt Ma Á La mỉm cười: “Đúng vậy, trải qua thăng trầm lịch sử, trong quá trình tiêu vong của thú chiến, những con thú chiến đầu đã dần dần diễn hóa thành thụy thú bảo vệ bốn phương, hay còn gọi là thủ hộ linh. Trong lòng mọi người, chúng là thần thú may mắn bảo vệ nhà cửa quê hương họ, nhưng đại đa số họ lại không biết rằng những con thú may mắn này thực ra đã từng là một lực lượng chiến đấu không thể thiếu trong những trận chiến bảo vệ Nhà cửa quê hương. Cường Ba thiếu gia hiểu được đến đây, vậy thì tôi có thể kể với cậu về lịch sử của chiến ngao được rồi. Còn nhớ khi ở châu Mỹ, tôi từng nói với cậu rằng trong lịch sử Thổ Phồn từng có một đạo quân, trong đó mỗi binh sĩ đều phối hợp với một chiến ngao, và bọn họ đã trở thành thần thoại bất bại trong lịch sử chiến tranh hay không?”

Lạt ma Á La vừa nhắc gần như tất cả đều khẽ kêu lên một tiếng: “Đạo quân ánh sáng!” Mỗi người đều bừng tỉnh ngộ, đây chính là điều mà họ vẫn luôn muốn biết, nguyên nhân tại sao Đạo quân Ánh sáng lại bất bại. Trác Mộc Cường Ba vỗ mạnh một phát lên trán, sao gã lại không liên hệ Đạo quân Ánh sáng với chiến ngao mà lạt ma Á La nhắc đến trong rừng rậm nguyên sinh châu Mỹ chứ, bản thân thật đúng là quá ngu độn.

Lạt ma Á La nói: “Không sai, chính là Đạo quân Ánh sáng. Để mọi người hiểu sâu thêm nữa về quan hệ giữa Đạo quân ánh sáng và chiến ngao, tôi cần nói trước về tình hình phát triển của thú chiến và hoàn cảnh lịch sử của cao nguyên Thanh Tạng lúc bấy giờ. Thực ra, trong rất nhiều câu chuyện của Tây Tạng đều có nhắc đến thú chiến, chỉ có điều mọi người xưa nay chưa từng chú ý đến mà thôi. Thú chiến truyền vào Tây Tạng từ bao giờ, hay từ thời cổ vùng đất này đã có sẵn hình thức chiến tranh ấy rồi, điểm này thì không thể khảo chứng, tôi cũng không có cách nào giải thích được. Thú chiến xuất hiện sớm nhất trong các ghi chép lịch sử của Thổ Phồn có lẽ phải truy ngược đến tận thời kỳ Thất xích Thiên vương.”

Giáo sư Phương Tân bỏ kính xuống, lấy mảnh vải lau lau. Ông cũng biết, Thất xích Thiên vương là bảy đời quân chủ khai quốc trong truyền thuyết của vương triều Thổ Phồn, nghe nói đều là những thần nhân hạ phàm, có phép thần thông, sau khi chết thì hóa thành cầu vồng hoặc đi lên bậc thang trời mà trở về thiên giới. Nhưng trong ấn tượng của ông, hình như chẳng hề có tư liệu nào liên quan đến thú chiến thời kỳ đó cả.

Chỉ nghe lạt ma Á La nói: “Có lẽ mọi người đều biết, tương truyền bảy đời quân chủ đầu tiên sau khi Thổ Phồn khai quốc đều không giống người thường, trên đầu có trụ sáng cao một thước, là do thần ban cho người Tạng để làm Vương, sau khi chết không có di thể mà đều quy về quầng sáng trên đỉnh đầu. Nhưng từ đời Tạng vương thứ tám, ChỉCống tán phổ, bọn họ không thể về trời được nữa, bởi vì Chỉ Cống tán phổ bị một đại thần của ông ta là La Ngang dùng tên bắn chết, Chỉ Cống tán phổ có nghĩa là vị tán phổ bị giết chết’. Theo sách Đôn Hoàng Bản Thổ Phồn lịch sửvăn thư ghi chép: ‘Vương này (chỉ Chỉ cống tán phổ) là con của thiên thần, dù thể hình như người bình thương, nhưng lại đặc dị khác hẳn người thường, có thần thông bay được cả lên thiên giới. Vương tiín cuồng ngạo kiêu căng, thường lệnh cho thuộc hạ cùng mình tỉ võ thi tài. Lần cuối cùng ông ta gọi một vị đại thần tên là La Ngang Đạt Tư đến tỉ võ.’ La Ngang tự nhận mình không phải là đối thủ của Tán phổ, không chịu so tài. Chỉ Cống cứ bức ép bằng được. Vậy là La Ngang đành nói với Chỉ Cống: “Thần là thần tử, ngài là quân chủ, thần tử quyết chiến với quân chủ là đại nghịch, vì vậy kính mong bệ hạ lúc quyết chiến hãy mang kính hộ tâm, trên vai dùng da cáo làm trang sức, khi bắt đầu hãy xoay đao múa trên đỉnh đầu.’ Thực ra đây chính là một cái bẫy dành cho Chỉ Cống, vì Chỉ Cống có phúc của tổ tiên lưu lại và có thần hộ mệnh, La Ngang không thể giết nổi ông ta. Chỉ Cống đã mắc mưu, La Ngang lại nói: “Lúc khai chiến thần sẽ dâng âm nhạc lên kính bệ hạ, ngoài ra xin cho phép thần mang theo hai trăm con bò. Chỉ Cống không thèm để mắt đến những chuyện này, chỉ mộg lòng muốn quyết đấu ngay. La Ngang cho một trăm con bò thồ muội than, một trăm con khác buộc lông trên mình. Lúc khai chiến, La Ngang lấy danh nghĩa dâng âm nhạc lên gõ chiêng khua trống ầm ĩ, đàn bò bị kinh động liền chạy tóe ra tứ tán, lông và muội than bay lẫn vào nhau, bụi mù mịt che mờ cả bầu trời, tất cả binh sĩ đều không nhìn thấy gì, chỉ trông thấy kính hộ tâm trước ngực Chỉ Cống phát sáng. La Ngang liền bắn tên giết chết Chỉ Cống, không hề dùng đến thiên quân vạn mã gì. Chỉ Cống cũng không hóa đi trong ánh sáng như các tổ tiên của ông ta.”

Nghe hết câu chuyện, Trương Lập lấy làm thất vọng, khẽ lẩm bẩm: “Đây mà là thú chiến à?” Chỉ có Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân là nhận ra chút gì đấy như hình thức ban đầu của thú chiến.

Giáo sư Phương Tân nói: “Câu chuyện này thì tôi cũng biết, nhưng thế vẫn còn chưa hết, nó vẫn còn nửa sau nữa mà.”

Lạt ma Á La nói: “Theo những gì chúng tôi khảo chứng được, nửa sau của câu chuyện bị ngờ là do đời sau thêm thắt vào, vì khi ấy chó ngao vẫn còn chưa xuất hiện trên vũ đài lịch sử.”

“Ồ” Giáo sư Phương Tân có chút thất vọng, vì đây là một trong những truyền thuyết lịch sử nổi tiếng nhất về chó ngao Tây Tạng mà họ biết.

Lạt ma Á La nói: “Đây chính là câu chuyện về thú chiến sớm nhất được ghi chép lại, cũng tương đối nổi tiếng. Những chuyện cũng khá nổi tiếng khác còn có “Vua chuột và quốc Vương”, “Bò Yak trắng”, “Anh hùng đẻ trứng…” Trong các sử thi sau này như Ban Mã Qua Đường, Cách Tát Nhĩ Vương lại càng ẩn chưa nhiều thông tin về thú chiến, tôi không lấy ví dụ cụ thể nữa. Vậy là đến thời Tạng vương Tùng Tán Can Bố, thú chiến đã phát triển hoàn thiện. Đồng thời trên cao nguyên lúc này các bộ tộc đã phát triển, nhưng đứng trước thú chiến đấu, sức mạnh quân sự của con người có phần yếu ớt, thành ra các thế lực đều chú ý phát triển một cách quy mô lực lượng thú chiến, quốc gia nào cũng có một hoặc hai loại thủ hộ linh của riêng mình. Loại thủ hộ linh phổ biến nhất trên cao nguyên chính là bò Yak, loài thú chiến đấu thể hình to lớn, lực đâm húc mạnh mà lại dễ thuẩn dưỡng này là quân chủ lực của thú chiến thời đó. Chẳng hạn như trong câu chuyện mọi người vừa nghe đó, thủ hộ linh của Thổ Phồn lúc đầu cũng là bò Yak. Thanh Tạng cao nguyên thời kỳ này cũng hệ như thời Xuân Thu Chiến quốc ở Trung Nguyên vậy, chư hầu tranh bá, phía Đông Thổ Phồn có Đa Di, Đảng Hạng, Bạch Lan; phía Bắc có Tô Tì, Thổ Dục Hồn, Hoắc Nhĩ, phía Tây có Tượng Hùng, các nước nhỏ hơn thì càng không đếm xuể. Thổ Phồn ở giữa, quần hùng cát cứ xung quanh, nhưng cũng không phải là quốc gia lớn mạnh nhất, quốc lực chỉ hơn được Tô Tì, Bạch Lan có thể nói là không phân cao thấp với Đảng Hạng, Thổ Dục Hồn. Còn cường thịnh nhất thời bấy giờ, phải nói đến Tượng Hùng ở phía Tây. Tượng Hùng đất rộng người đông, binh lực hùng hậu, thủ hộ linh của quốc gia này lại càng là loại mạnh trong những loại mạnh. Bích họa mà chúng ta thấy trong Đảo huyền Không tự đủ để chứng minh điểm này rồi, thủ hộ linh của họ chính là sói và đại kim bằng, dùng sói chiến đấu với bò Yak là đã có ưu thế bẩm sinh, thừa sức uy hiếp những nước nhỏ khác trên cao nguyên này. Chỉcó điều đến thời Tạng vương Tùng Tán Can Bố, Tượng Hùng không biết tiến thủ, quốc lực ngày một suy vong yếu kém, nhưng lạc đà gầy chết cũng to hơn ngựa. Thổ Phồn thực sự không nuốt trôi được khúc xương cứng Tượng Hùng này.”

Lạt Ma Á La ngưng lại một chút rồi tiếp lời: “Tạng vương Tùng Tán Can Bố, tương truyền từ nhỏ đã hùng tài đại lược, là một kỳ tài quân sự nghìn năm hiếm gặp. Cha bị gian thần giết hại, nghe nói chỉ mới mười ba tuổi ông đã dựa vào trí tuệ hơn người của mình, bắt được tên hung thủ báo thù cho cha; mười lăm tuồi đã lực bạt sơn hề khí cái thế, hùng tâm tráng trí cao ngất, quyết ý nhất thống cao nguyên. Vị Tạng vương trẻ tuổi cũng biết rằng, Tượng Hùng ở phía Tây là cường quốc đứng đầu trên cao nguyên, lại ở phía sau nước mình, đánh Tượng Hùng thì không thể đánh được, mà nếu xuất binh tấn công các nước khác, lại có khả năng bị Tượng Hùng thừa cơ lấn đánh, nhưng, Thổ Phồn muốn phát triển cường thịnh, vẫn buộc phải chinh phục Tượng Hùng trước. Đúng lúc vị quân chủ trẻ tuổi không nghĩ ra kếsách nào, thì có thể nói là trời chiều lòng người, Tượng Hùng vương đã đích thân đem hai nhân tài đến tận tay Tùng Tán Can Bố. Đó chính là những người đã sáng lập ra Đạo quân Ánh sáng, về sau trở thành hai đại gia tộc tay trái tay phải của các đời quân chủ Thổ Phồn, và được sủng ái cho đến tận khi Thổ Phồn diệt vong, gia tộc họ Vi và họ Nương. Nương thị và Vi thị vốn là quý tộc Tượng Hùng . Cảnh ngộ họ gặp phải Tượng Hùng được viết trong một bộ sử thi khác. Tóm lại là họ không còn bằng lòng với sự thống trị của Tượng Hùng vương nữa, mà chạy sang đứng dưới cờcủa Thồ Phồn. Việc đàu tiên những người này nói với Tạng vương Tùng Tán Can Bố khi vào diện kiến chính là họ sẵn lòng giúp Tạng Vương xây dựng một đạo quân vô địch. Đề nghị đó không hẹn mà trùng hợp với suy nghĩ của Tạng vương trẻ tuổi. Vậy là Tùng Tán Can Bố liền giao hết việc này cho hai người hoàn thành, người ta vẫn nói ‘tri nhân thiện nhậm’, chắc cũng chỉ đến vậy mà thôi. Từ đó trở đi, vị bá chủ Thổ Phồn bắt đầu thay đổi khí khái coi thường cả thiên hạ trước đó, ẩn giấu khí thế, trong thì tạo phúc làm giàu cho quốc dân, sửa đổi pháp quy, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế; bên ngoài đối chọi với cường địch,thông hôn nhân, liên lạc với những nhánh đồng tông. Kết giao nước xa, đánh nước gần, ông ta ẩn nhẫn, chờ đợi, chờ đợi đến ngaà đại quân vô địch kia có thể xuất chinh chiến đấu! Nếu nói nhà Tần lớn mạnh nhờ Thương Ưởng biến pháp, thì Thổ Phồn lớn mạnh, kẻ biến pháp chính là bản thân người thống trị. Tùng Tán Can Bố vừa có khí thế của Sở Bá vương, lại kiêm cả kỳ tài tuyệt thế của Gia Cát lượng. Cả cao nguyên cuộn lên dòng chảy ngầm mãnh liệt trong bầu không khí vừa căng thẳng lại vừa bình lặng, thai nghén một trận đại biến cố xưa nay chưa từng có, một biến cố đã được trời cao định sẵn là do vị Tạng vương vĩ đại nhất trong lịch sử cao nguyên, Tán phổ Tùng Tán Can Bố thực hiện.”

Giọng của Lạt ma Á La kể rất bình tĩnh, nhưng bọn Ba Tang, Nhạc Dương, Trương Lập nghe mà thấy máu nóng bừng bừng. Trước bọn họ chỉ biết Tùng Tán Can Bố được gọi là một bậc đại kỳ tài hiếm có của cao nguyên Thanh Tạng, nhưng công tích lớn lao mà ông lập nên khiến tất cả đồng bào người Tạng đều lấy đó làm niềm kiêu hãnh của mình, trước ông, chưa từng có vị Vương nào làm nổi, sau ông, cũng không có vị Vương nào vượt qua được. Giờ đây, tất cả những công tích của vị con trời này đang được tái hiện lại một cách sinh động qua lời kể của lạt ma Á La.

Lạt ma Á La lại tiếp tục: “Đạo quân Ánh sáng từ ngày bắt đầu thành lập đã đặt ra mục tiêu không giống với bất cứbinh chủng nào khác. Nương thị và Vi thị cho rằng, thú chiến đã phát triển đến tột đỉnh, rất khó có đột phá nữa, nhưng binh sĩ thì khác, bọn họ còn có thể mạnh hơn, nhanh hơn nữa. Nếu không thể lay động khí thế thiên quân vạn mã đất rung núi chuyển của thú chiến, thì hãy sửa đổi sách lược linh hoạt, mà chỉ có người với người mới có thể phối hợp điều hòa với nhau tốt hơn, có thể phản ứng với muôn vàn biến đổi trong nháy mắt trên chiến trường, không thể nói là người lại không bằng thú chiến được. Dựa vào lý luận này bọn họ đã hoàn toàn phá vỡ cách biên chế binh chủng thông thường, đơn vị tác chiến nhỏ nhất là một tiểu đội năm người, có một tiểu đội trưởng, năm tiểu đội hợp lại thành một trung đội, có một trung đội trưởng và một trung đội phó; năm trung đội biên chế thành một đại đội; có một đại đội trưởng và một đại đội phó cùng bốn chánh phó tham mưu. Khi đánh trận lấy đại đội làm đơn vị cơ bản, điều động thống nhất, đại đội trưởng chết trận thì đại đội phó chỉ huy, đại đội phó chết trận thì tham mưu chỉ huy, nếu các chỉ huy cao nhất của đại đội đều tử trận hết, toàn bộ đại đội ấy còn có thể chia lẻ ra, phân thành các trung đội do trung đội trưởng dẫn đầu tác chiến. Nếu thực hiện các nhiệm vụ như tập kích, đánh chặn, ám sát, thì mỗi tiểu đội là một đơn vịtác chiến, vì chỉ có biên chế năm người nên tính cơ động và linh hoạt của họ rất cao. Nương thị và Vi thị đã gắng hết sức lực tâm tư, quyết huấn luyện cho đội quân này dù chỉ còn lại một binh sĩ, thì binh sĩ ấy cũng phải có sức chiến đấu khiến kẻ địch khiếp sợ. Những binh sĩ này ngoài đặc điểm của quân nhân bình thường như có thân thủ hơn người, lấy phục tùng mệnh lệnh làm thiên chức, còn có nhiều năng lực hết sức đặc thù khác, như có thể ngày đêm hành quân hai trăm dặm, có kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã tuyệt hảo, có thể ẩn mình dưới lớp tuyết, cũng có thể ngụy trang thành một lùm cỏ di động. Trong tiểu đội năm người, ít nhất có một lợi bản, có thể nhận biết các loài thảo dược, xem bệnh cứu người, đồng thời tinh thông giải phẫu, có thể thực hiện những ca phẫu thuật đơn giản trong lúc hành quân; một người là vu cổ sư, tinh thông các cáh thức giết người và tra tấn, đồng thời sở trường dùng độc; một trinh sát thông thuộc các loại địa hình, có thể nhận biết dấu chân ngựa và vết tích của bò dê để lại mà biết được sĩ số cùng hướng đi của kẻđịch; một thần xạ thủ có thể kéo cung cứng, bắn xa ngoài hai trăm bước chân; một người có biết thuật ngụy trang, có thể lợi dụng hoàn cảnh xung quanh để bố trí cạm bẫy bắt người và dã thú…”

Lạt ma Á La cứ thao thao bất tuyệt nói tiếp, ba người xuất thân là bộ đội là Ba Tang, Nhạc Dương và Trương Lập từ nãy đã thầm kinh hãi thốt lên trong lòng: “Biên chế của bộ đội đặc chủng!” Không nghi ngờ gì nữa, lúc này họ đang được nghe nói về một đạo quân bộ đội đặc chủng đã được huấn luyện từ hơn một nghìn năm về trước; họ có lý do đểtin rằng, với khả năng chiến đấu của đội quân này, ở thời kỳ ấy, nó thực sự không hổ với danh hiệu vô địch một chút nào. Nhạc Dương lại còn liên hệ cả đến Đảo Huyền Không tự, chỉ luận về thân thủ, bộ đội đặc chủng ngày nay còn không bằng bộ đội đặc chủng cổ từ nghìn năm trước ấy chứ. Có điều rất nhanh sau đó anh lại tự phủ định ý nghĩ này của mỉnh, khi ấy Đảo Huyền Không tự vẫn còn nằm trong địa giới Tượng Hùng, vậy thì đợt huấn luyện đầu tiên của Đạo quân Ánh sang không thể nào ở bên trong Đảo Huyền Không tự được.

Cuối cùng lạt Ma Á La nói: “Đương nhiên trong quân đội còn có cả các chức nghiệp đặc thì như thao thú sư, ảo thuật sư, cơ giới sư, thuật sĩ thiên khí về sau này. Những binh sĩ giữ chức này thông thường đều một người tinh thông nhiều loại kỹ năng. Đại quân đã hình thành, nhưng vẫn không dám vọng động, vì khi ấy TượngHùng còn sở hữu thủ hộlinh mạnh nhất trên cao nguyên, còn Đạo quân ánh sáng thì mới từng diễn luyện chiến đấu với quân bò Yak. Tạng vương phát hiện ra, quân Ánh sáng ngoài chiêu tránh mũi nhọn tấng công của bò Yak, dẫn dụ cho chúng tản ra rồi tung đòn quyết định, thì rất khó chiếm được lợi thế nào khác trên chiến trường. Họ có thể chiến thắng quân đội Tượng Hùng sở hữu thủ hộ linh mạnh nhất cao nguyên hay không, điều này thực sự khiến người ta lo lắng. Vậy là, Tạng Vương quyết định, nhất thiết phải tìm cho ra các đặc điểm của thủ hộ linh nước Tượng Hùng, đồng thời, Thổ Phồn cũng phải có thủ hộ linh mới, một loài thủ hộ linh mạnh mẽ hơn nữa, có thể khắc chế được thủ hộ linh của Tượng Hùng. Ông gả em gái ruột của mình cho Tượng Hùng để biểu thị tình hữu hảo, đồng thời ký một loạt điều ước hòa bình, lấy được cảm tình của Tượng Hùng vương. Em gái Tạng vương là Trại Mã Cát phụ trách nhiệm vụ nặng nề là thăm dò thủ hộlinh của Tượng Hùng. Nàng ta viết những thông tin thu thập được lên chiếc khăn đầu gắn đầy Lục Tùng thạch gửi vềThổ Phồn tặng cho Tùng Tán Can bố. Người đời chỉ biết Trại Mã Cát bị chồng ghẻ lạnh, mới dùng Lục Tùng thạch và khăn đầu tượng trưng cho sự dũng mãnh của đàn ông và sự yếu mềm của đàn bà để kích động Tùng Tán Can Bố xuất chinh tấn công Tượng Hùng, chứ không hề hiểu rằng bên trong chiếc khăn ấy lại giấu bí mật của thủ hộ linh nước Tượng Hùng, chữ viết Trại Mã Cát sử dụng chính là Tạng văn, khi đó vừa mới được sáng tạo ra, vẫn còn là một bí mật cấp cao của Thổ Phồn. Đồng thời, với nỗ lực không ngừng nghỉ, Nương thị và Vi thị cũng phát hiện ra ở Đảng Hạng có một loài động vật mạnh mẽ gọi là ngao. Sau bao nhiều năm chịu cảnh vô danh tiểu tốt trong hàng rào của các bộlạc, trong vườn sau của các tộc trưởng, cuối cùng chó ngao Tây Tạng cũng gặp được Bá Lạc của mình. Để nắm bắt được phương pháp thuần dưỡng loài thủ hộ linh hoàn toàn mới này, đồng thời phá giải thủ hộ linh của Tượng Hùng, Tạng vương Tùng Tán Can Bố hạ lệnh, yêu cầu mỗi tiểu đội đều phải có binh sĩ tinh thông thuật thuần dưỡng, không hạn chế là thuần dưỡng loài động vật nào. Vậy là một chức nghiệp hoàn toàn mới ra đời.”

“Thế chiến ngao không phải là thủ hộ linh của Đảng Hạng à?” Nhân lúc lạt ma Á La ngưng lại lấy hơi giây lát, Nhạc Dương tranh thủ đặt câu hỏi.

“Khi ấy thì vẫn chưa,” lạt ma Á La đáp: “Khi ấy chó ngao ở Đảng Hạng chẳng qua chỉ là chó ngao thông thường, không thể coi là chiến ngao được, vì tính tình hung dữ, kiêu ngạo, ngỗ ngược nên từ đầu chó ngao đã là một loài mãnh thú cực khó huấn luyện thuần dưỡng rồi. Các thao thú sư thời cổ từng nói thế này, thuần hổ khó, khó hơn thuần sói mười lần; nhưng thuần ngao còn khó hơn thuần hổ, nuôi ba con hổ cũng không nhọc sức bằng một ngao, nếu được chiến ngao, tay vin mái bạc khóc. Ý muốn nói, thời gian để huấn luyện được một con ngao hợp tiêu chuẩn đủ để huấn luyện được ba con hổ, mà muốn huấn luyện con ngao đạt tiêu chuẩn ấy thành chiến ngao, thì tóc người huấn luyện đã bạc cả rồi. Vả lại loài thú này sức khỏe vô cùng, thường tự làm theo ý mình, cho dù có đưa ra chiến trường cũng không thể khống chế nổi, nếu chỉ là binh sĩ thông thường còn có thể bị cho ngao kéo lê đi. Khả năng chiến đấu của Đạo quân Ánh sáng vượt xa quân sĩ thông thường, nên có thể khống chế được loài vật này. Khi ấy Tùng Tán Can Bốthu được ba trăm con ngao, chắc là mỗi tiểu đội được phân một con. Ngao đó cũng chưa thể coi là chiến ngao, bất quá chỉ có thể gọi là chó ngao trinh sát thôi, nhưng thị giác, thính giác, khứu giác của chúng đã hỗ trợ rất lớn cho đội quân vô địch này, đồng thời khiến họ trở thành một quân đoàn khủng bố có thể tác chiến cả ngày lẫn đêm. Từ đó trởđi, Đạo quân ánh sáng bắt đầu rèn luyện trên chiến trường, trước tiên họ giúp Thổ Phồn thu phục các bộ tộc Tô Tì, Đạt Ba, phía Bắc phá Thổ Dục Hồn, phía Đông chinh phạt Đảng Hạng, còn vượt xa đến tận Trung Nguyên, đã có mấy bận giao tranh với quân Đại Đường hùng mạnh. Chiến ngao trải qua chiến tranh rèn luyện, dần dần đã dung hợp với đạo quân ánh sáng, càng về sau càng ăn ý, từ ba trăm con thuở ban đầu, đến trước trận chiến cuối cùng với Tượng Hùng, Đạo quân ánh sáng đã có hơn năm nghìn con chiến ngao đạt chuẩn, đồng thời họ cũng tôi luyện bản thân thành một đạo quân sắt thực sự, mặc dù quân số không đông, nhưng người người đều có thể lấy một địch trăm. Đến trận quyết chiến cuối cùng, Tùng Tán Can Bố lại điều động từ Đảng Hạng thêm năm nghìn chó ngao thường hoàn thành chỉ tiêu một người một ngao. Đội ngũ kỳ quái này chính là Đạo quân Ánh sáng mà đời sau vẫn xưng tụng là đạo quân vô địch đấy. Bọn họ vẫn giữ hình thức này cho đến cuối cùng khi toàn quân đều bị tiêu diệt. Có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng, khi đó Đạo quân Ánh sáng đã biết thủ hộ linh của Tượng Hùng là tổ hợp đại kim bằng và chiến lang, loài sói tính tình hung dữ, nanh sắc vuốt nhọn, lại có thiên bẩm tác chiến theo bầy đàn, khi chiến đấu thường tập trung thành từng nhóm từ mười đến mười lăm con sói, chia nhau các hướng, tổng số toàn quân ước chừng năm vạn; Kim bằngước chừng cũng có khoảng hơn nghìn con, số lượng tuy ít, nhưng hai mắt đại kim bằng như hai ngọn đuốc, thiện chiến trên không, từ trên cao bổ xuống, thế lớn lực mạnh, không thể ngăn chặn cũng không thể đề phòng, hơn nữa đại kim bằng lại chuyên mổ mù mắt quân địch, tổ hợp sói – ưng ấy đúng là rất khó phá giải.”

Nói tới đây, lạt ma Á La thở hắt ra một hơi dài, hai mắt khép hờ, mọi người bất giác đều nín thở chờ nghe về cuộc quyết chiến cuối cùng giữa đạo quân ánh sáng và Tượng Hùng một nghìn năm về trước, cả căn phòng phút chốc trởnên tĩnh lặng dị thường.

TRẬN CHIẾN NGHÌN NĂM

Ngữ điệu của lạt ma Á La thấp trầm mà mạnh mẽ, chỉ nghe ông chậm rãi nói: “Có điều cũng không phải là không có cách phá giải. Vi thị và Nương thị cho rằng sói tính tình tham lam, khát máu lại ưa bạo lực, không giống như chó, không thể hoàn toàn thuần hóa, khi xuất chiến, phía Tượng Hùng nhất định sẽ mặc cho bầy sói phóng túng, tựa như mãnh hổ rời chuồng, để mặc chúng thi nhau cắn xe mục tiêu, vì thế có thể lợi dụng đặc tính khát máu tàn bạo này đểphá năm vạn đại quân lang sói này. Họ đã cho chuẩn bị hai vạn con bò Yak, để người Tượng Hùng tưởng rằng thủ hộ linh của Thổ Phồn vẫn chỉ là bò Yak Tây Tạng, họ chất lên lưng bò những bao da nhồi đầy rơm rạ, bôi nọc độc chí mạng lên lông chúng, cứ bốn con bò hợp thành một tổ, phía sau kéo theo một khúc cây lớn. Hai vạn con bò Yak này chính là bữa ăn chí mạng dành cho lũ chiến lang của người Tượng Hùng. Còn Đạo quân ánh sáng và chiến ngao ẩn mình phía sau lũ bò Yak, để đề phòng nanh vuốt sắc bén của đại kim bằng, các binh sĩ đều mặc giáp trụ đồng xanh, còn chiến ngao thì khoác áo giáp mềm dệt bằng sợi tơ vàng, chiến trường lúc ấy…”

Theo lời kể rù rì của lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như đã dứng giữa chiến trường cổ đại. Chiến trường thuở ấy ở ngay dưới chân ngọn thần sơn Cương Nhân Ba, giữa hai cái hồ lớn, hai quân dàn trận, xua thú chiến đấu ra. Bên phía quân Tượng Hùng, trên không trung, một ngàn con kim bằng trải rộng đôi cánh, không ngừng rít lên chói tai, dưới đất, năm vạn chiến lang hú gào không dứt, móng sắc cào xuống đất, chộn rộn chỉ muốn lao lên, các thao thú sư đứng sau bầy sói mình điều khiển dùng thảo dược xua quân; bên phía Thổ Phồn, hai vạn bò Yak Tây Tạng ngửa mặt lên trời kêu vang đầy bi thống, khối gỗ lớn kéo theo phía sau tựa như vũ khí của tử thần, chẳng những sẽgiết sạch kẻ địch mà đồng thời cũng nghiền nát cả thân thể chúng; một vạn chiến sĩ đạo quân ánh sáng xếp thành trận thế hình vuông, mình mặc áo giáp trụ đồng xanh, tay cầm binh khí dài, lưng đeo cung tên cứng, bên cạnh mỗi binh sĩ là một con chiến ngao, tất cả đều khoác áo giáp mềm tơ vàng, không nộ không hờn, không ngồi không nằm, chẳng nhìn bầy lang với ánh mắt căm tức, cũng không e ngại trên không trung, thần quang thu cả vào trong, lặng như phỗng đá. Hai hồ mênh mông bát ngát, khí lạnh đìu hiu, tựa như tử thần đang chăm chăm nhìn xuống mảnh đất này, nhoẻn miệng mỉm cười trước bữa thịnh yến sắp dâng lên. Trống trận ầm ầm như sấm, tù và nhất tề rúc vang, trên là trời xanh dưới là hoàng thổ, cùng tiếng gào thét gầm rú, đàn bò Yak dưới sự điều khiển của các thao thú sư oằn oại tiến lên, chậm chạp, vì địa thế hồ thần hơi cao hơn hồ quỷ một chút, các súc gỗ chỉ cần được kéo đi, là sẽ tự lăn theo triền dốc mà xuống, lũ bò sẽ phải chạy càng lúc càng nhanh, bằng không sẽ bị chính những súc gỗ khổng lồ mà mình kéo lê lăn lên đè chết. Đồng thời những túi muội than trên lưng bò cũng bị xóc nảy mà tung xổ ra, như sương mù, như khói sớm, ngăn trở tầm nhìn của đại kim bằng trên không trung; lũ bò giữa màn sương mờ ấy đã không thể nhìn thấy gì, tất cả lại bị cố định thành từng nhóm bốn con một vào càng xe, nên không thể chạy ngang rẽ dọc tán loạn lung tung, mà chỉ có thể chạy như điện theo đúng một phương hướng!

Đó là những bước chạy đốt cháy sinh mạng, vạn vó cùng tung lên, đất rung núi chuyển, nước hồ cũng vì vậy mà cuộn dâng sóng lớn, đàn bò cứ thế mà xông thẳng vào giữa trận địa của lũ sói đang mắt lộ hung quang, lấy tấm thân múa thịt ra mà cự lại với nanh sói sắc bén.

Có lẽ trước khi xuất chinh chúng đã biết trước, vận mạng của mình cũng hệt như đám muội than cõng trên lưng, nhẹ bẫng hững hờ, máu tươi của chúng sẽ nhuốm đỏ vùng đất này, những nơi vết chân chúng giẫm qua, nghìn năm sau nữa sẽ được người đời nhớ mãi và ca tụng, chứ không phải bọn chúng. Khi luồng máu tanh đầu tiên tản ra giữa bầy sói, cả bầy liền sôi trào lên, cái mùi từ thuở ngàn xưa đã khiến chúng tàn sát tranh giành kích thích dã tính nguyên thủy nhất bên trong chúng. Các thao thú sư ra sức kìm hãm bầy sói lại, nhưng không hề hiệu quả chút nào, khi con sói đầu tiên thoát ra kỏi đội ngũ xông lên trước, hệt như hiệu ứng domino, cả đàn sói năm vạn con liền như một cơn lũ tràn đê, sầm sập lao thẳng về phía mộ địa đã được chuẩn bị sẵn cho chúng. Lũ sói đã được huấn luyện biết cách đối phó với kẻ địch như thế nào, mười mấy con sói cùng lúc lao vào một con bò Yak, vật ngửa đối thủ ra đất, cắn đứt cổ họng, kế đó lại bổ sang tấn công một con khác, chúng hiểu rất rõ, khi quét sạch chiến trường, cũng chính là lúc thịnh yến của chúng mở màn. Thu hoạch, bọn chúng đang khoan khoái thu hoạch mà chẳng hề hay biết tử thần cũng đang mỉm cười mở rộng vòng tay ra với chúng.

Khi khói mù trên chiến trường đã tan hết, bầy hùng ưng nháo nhác lo âu trên bầu không chỉ chứng kiến mặt đất ngổn ngang thi thể và đàn sói đang co rút cúm ró, mà còn thấy phía bên kia chiến trường, không nghi ngờ gì nữa, trận thế hình vuông chỉnh tề có hai màu xanh đen và vàng kim chói lọi trộn lẫn chính là mục tiêu nổi bật nhất nhìn từ trên không trung, chúng liền lao thẳng về phía kẻ địch! Bên kia là đạo quân ánh sáng, một nửa đã giơ cao trường thương, một nửa quỳ xuống, giương cung lắp tên, hướng thẳng lên trời, còn bầy chiến ngao vẫn vững như bàn thạch, không nôn nóng cũng không cồn cào, bọn chúng biết rõ, khoảnh khắc thuộc về chúng vẫn còn chưa đến. Đại kim bằng lao nhanh, vận tốc phải trên hai trăm kilomet trên giờ, giỏi tấn công trên cao, chính là đòn tấn công nhanh nhất trên cao nguyên này. Các chiến sĩ đôi mắt kiên định ánh lên như ánh thép, không hề chớp lấy một lần. Bọn họ đang chờ đợi…chờ đợi…

Lũ chiến ngao dùng mắt đo khoảng cách giữa người và kim bằng, hai nghìn mét, một nghìn mét, năm trăm mét, ba trăm mét, một trăm mét…

Khi tiếng sủa phát ra trong cổ họng chiến ngao, “tinh…” tiếng cung rời tên vang lên thê thiết, nghênh tiếp đòn tấn công của lũ kim bằng không phải là một mũi tên, hai mũi tên mà là một bức tường, một bức tường tử vong được xây bởi những mũi tên sắc nhọn. Đà lao của kim bằng đã đạt tới cực hạn, muốn vỗ cánh bay cao trở lại cũng không thể, mà những mũi tên như nước triều, đợt trước chưa yên, đợt sau đã tới, bầy hùng ưng rơi xuống như sao sa, lao xuống hồ nước chết chóc, chẳng gợn lên chút sóng cồn.

Kim bằng xếp cánh, xác sói la liệt, mười vạn đại quân Tượng Hùng nấp sau lưng thú chiến chưa đánh đã run, phảng phất như không phải đối mặt với một vạn quân địch, mà là một cỗ máy giết chóc không biết ngừng nghỉ, là vực thẳm chết chóc sâu không thấy đáy. Chính trong khoảnh khắc đại quân Tượng Hùng còn chưa định thần lại ấy, tù và lại vang lên lần nữa, chiến ngao bắt đầu rùng mình chuyển động, khắp núi khắp rừng tràn ngập những chú sư tử vàng rực. Thời khắc ấy là thời khắc chúng từ trời cao giáng xuống nhân gian, từng ngôi sao băng lao vút vào giữa đại quân Tượng Hùng, mang theo những nụ hôn của thần chết. Mặt hồ phản chiếu những tia chớp vàng chóe, rồi ngay sau đó đã bị sắc đỏ nhuộm rực lên. Các chiến sĩ Đạo quân ánh sáng theo sát phía sau chiến ngao, rút ra những thanh loan đao hình trăng lưỡi liềm, lưỡi đạo vung đến đâu, không ai cản nổi. Cặp mắt các binh sĩ Tượng Hùng phủ một quầng đỏmáu, ý chí chiến đấu đã tan biến, trong đầu chì tràn ngập một ý nghĩ duy nhất: chạy, chạy, chạy…

Cuối cùng lạt ma Á La nói: “Trận chiến với Tượng Hùng tổ hợp người và ngao đã đánh bại tổ hợp sói và đại kim bằng, kế đó quét sạch mười vạn đại quân của Tượng Hùng, từ đấy không còn địch thủ nữa. Trận chiến kinh thiên động địa ấy cuối cùng cũng quét sạch chướng ngại cuối cùng ngăn trở Tạng vương Tùng Tán Can Bố thống nhất cao nguyên. Mô thức của thú chiến đã được viết lại một cách triệt để, thao thú sư trực tiếp tham chiến với thân phận binh sĩ, đó là chuyện chưa từng được nghe nói đến trong lịch sử của thú chiến. Và chiến ngao, thủ hộ linh hoàn toàn mới ấy cuối cùng cũng được người đời biết đến, bằng bá khí lấn nuốt cả thiên hạ ấy, chúng đã tuyên bố với những thủ hộ linh khác rằng mình mới là loài thú chiến đấu mạnh mẽ nhất. Vùng đất Tượng Hùng, nơi xảy ra cuộc chiến cũng được tụng ca thành nơi chiến ngao ra đời. Để kỷ niệm Đạo quân Ánh sáng bất bại vô địch, hồ thần đã được đặt tên thành hồ Mã Bàng Ưng Thác, dịch nghĩa là hồ Bất Bại, còn hồ lạp Ngang Thác phía bên Tượng Hùng, nơi âm hồn của mười vạn đại quân không tan, oán khí ngưng kết thành âm phong, mỗi khi có người đi qua, bốn phía đều vang lên tiếng rú gào, trở thành hồ quỷ. Đây mới là nguồn gốc tên gọi thật sự của hồ thần và hồ quỷ, nhưng đến ngày nay thì đã chẳng còn ai biết nữa. Chuyện về sau thì mọi người cũng từng nghe nói rồi đấy, bộ tộc Qua Ba ở Tượng Hùng được biên nhập vào Đạo quân Ánh sáng, nguyên nhân chính là vì đặc tính sống chung với sói của họ. Khi đặc tính này được vận dụng với chiến ngao, tương truyền đã nảy sinh biến hóa về mặt bản chất. Lũ chiến ngao vốn cực kỳ khó thuần phục và người Qua Ba tựa hồ như được trời cao tác hợp, phối hợp cực kỳ hoàn mỹ, không một khe hở. Đạo quân ánh sáng là do Vi thị và Nương thị sáng lập, vì vậy chức vụ thống soái tối cao của đạo quân này cũng do người trong hai gia tộc luân lưu đảm nhiệm. Từ đó họ trở thành hai đại gia tộc có quyền lực nghiêng ngả cả nước Thổ Phồn, mãi cho đến ngày Đạo quân Ánh sáng biến mất, hai gia tộc cũng trở mặt thành thù, mỗi bên phò trợ một vị tán phổ, cuối cùng dẫn đến vương triều Thổ Phồn bị tan rã sụp đổ. Sự biến mất của Đạo quân ánh sáng và các thánh vật trong tứ Phương miếu cũng trởthành điểm nghi hoặc lớn nhất trong lịch sử Thổ Phồn.

Nghe lạt ma Á La kể về cuộc chiến cuối cùng xong, mọi người ai nấy đều thở phào một hơi, bất giác mồ hôi đã lấm tấm khắp người.

Lạt ma Á La uống nốt ngụm nước cuối cùng, ấn nút trên bàn phím, chuyên chữ “thủ hộ linh” bằng tiếng Tạng trên màn hình thành màu đỏ, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Giờ thì cậu đã biết hàm nghĩa thực sự của thủ hộ linh là gì rồi chứ, Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu: “Thủ hộ linh không chỉ là thần thú mang ý nghĩa tôn giáo, mà thực sự là thú chiến đấu thời cổ đại, mỗi bộ lạc đều có thú chiến đầu của riêng mình, vì vậy ở thời đó, thụy thú bảo vệ bốn phương của các quốc gia lớn mới không giống nhau. Trước đây tôi luôn lấy làm kỳ quái, tại sao sói tuyết cao nguyên lại là thụy thú phương Đông Bắc cho được. Giờ thì đã hiểu rồi, bởi vì chúng chính là chiến ngao. Mà Đảng Hạng, đất cung cấp chiến ngao lại nằm ở phía Đông Bắc Thổ Phồn. Hiểu rồi, tôi hiểu rồi…”

Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: “Còn nữa, trong Cổ cách kim thư có đoạn nhắc đến Vi thị nói với con cháu bà ta, bảo họ lui về phía Tây, đó là bởi gia tộc bà ta đến từ Tượng Hùng, gia tộc ấy lại từng nắm quyền chỉ huy Đạo quân ánh sáng, nhất định bà ta biết chuyện gì đó, bậy nên mới bảo con cháu mình chạy về Tượng Hùng. Ở đó có hy vọng phục quốc, có phải là ba ta muốn con cháu mình đi tìm kiếm phương pháp huấn luyện của Đạo quân ánh sáng? Đại sư Á La, có một câu tôi luôn muốn hỏi ngài, cái Đảo Huyền Không tự đấy, có liên quan gì đến Đạo quân ánh sáng hay không? Tôi có cảm giác những tòa tháp ngược dùng để tu hành ấy, nói không chừng đã được cải tạo lại thành nơi huấn luyện các chiến sĩ của Đạo quân ánh sáng sau khi Thổ Phồn chiến thắng Tượng Hùng cũng nên!”

Ngón tay lạt ma Á La máy động, ông khẽ ho nhẹ một tiếng, nói: “Chuyện này…dựa theo những tư liệu chúng tôi hiện có trong tay, chỉ có thể chứng minh đó là nới một tôn giáo bí ẩn dùng để tu hành, còn có quan hệ trực tiếp với Đạo quân ánh sáng hay không thì đến giờ vẫn chưa có đầu mối. Kiến giải của cậu về vấn đề này như thế nào?”

Nhạc Dương nói: “Tôi đang nghĩ, nếu Cổ Cách vương biết được điều gì từ tổ tiên của ông ta, vậy thì, vậy thì có thểgiải thích về con đường bí mật mà chúng ta thoát ra khỏi Đảo Huyền Không tự được rồi. Bởi vì họ biết đến sự tồn tại của Đạo Huyền Không tự, chỉ là không thể tìm thấy lối vào chính xác ở đâu. Do đó vương triều Cổ Cách chọn đóng đô ở đấy nhất định là có mục đích. Họ vẫn cứ không ngừng đào sâu xuống dưới, hy vọng có thể tìm thấy Đảo Huyền Không tự, vì nơi đó, chính là nơi có hy vọng phục quốc của họ! Những bức tranh tu luyện, thú chiến, diễn võ mà Cường Ba thiếu gia và lạt ma Á La nhìn thấy trong thạch thất, đối với một quốc gia đang khát khao lớn mạnh thời bấy giờ mà nói, chính là bảo vật chí cao! Bọn họ chỉ còn chưa đầy một mét nữa là đào tới được rồi! Không phải Đa Cát cũng từng nói, Cổ Cách vương phát hiện ra Đảo Huyền Không tự, kinh hãi cho là chí bảo, liền xây cung điện bên trên hay sao? Tôi nghĩ ý của anh ta chính là muốn nói Cổ Cách vương biết được Đảo Huyền Không tự ở đâu, hoặc giả đã nhìn thấy tượng Phật khổng lồ cao nghìn mét ấy rồi, nhưng lại không thể tìm được lối vào chính xác mà thôi.”

Lạt ma Á La nghe mà kinh hãi trong lòng, thẩm nhủ: “Nhạc Dương, bộ não của cậu rốt cuộc là làm bằng gì vậy? Những điều này, cả trưởng lão trong giáo ta cũng chưa từng nghĩ đến đó!”

Nhưng ông vẫn giữ thái độ bình tĩnh nói: “Ừm, cách nghĩ này của cậu rất sáng tạo, nhưng chỉ có thể dừng lại ở mức độ giả thiết, hơn nữa có lần theo đầu mối này tiếp tục tra xét, e là cũng không có kết quả đâu.”

Nói xong lạt ma Á La liếc nhìn sang phía Lữ Cánh Nam một cái, dùng ánh mắt ngầm bóng gió: “Học trò giỏi của con đấy.”

Giáo sư Phương Tân cất tiếng hỏi: “Tôi còn một vấn đề nữa. Mặc dù đại sư đã giải thích rất rõ ràng, nhưng sao chúng tôi lại không tìm được tư liệu nào nói đến mối liên hệ giữa chiến ngao và sói tuyết cao nguyên? Tôi từng hỏi thăm một số chuyên gia, bọn họ cugnx không khẳng định chuyện này cho lắm, vả lại, số chuyên gia ủng hộ thuyết nói sói tuyết cao nguyên chính là bò Yak còn chiếm đa số nữa.”

Lạt ma Á La nở một nụ cười điềm đạm: “Thực ra, câu chuyện tôi vừa kể không được ghi chép trong mật điển hay thư tịch bí mật gì của tôn giáo chúng tôi cả, mà là một câu chuyện lưu truyền trong dân gian.” Thấy mọi người ngẩn cả ra, lạt ma Á La lại nói tiếp: “Về trận đại chiến này, mọi người có thể tìm thấy trong các sử thi cổ. Tôi còn nhớ, có một đoạn xướng lên thế này…” Đại sư bắt đầu cất tiếng hát: “Hùng Sư đại vương hạ lệnh một tiếng, sư tử đỏ và các binh sĩ giương cung tên chiếm cứ vùng đất cao; sư tử đen và các binh sĩ cầm thuấn bài xông lên phía trước; sư tử lam và các binh sĩ cầm trường thương theo sát phía sau; sư tử trắng và binh sĩ mặc giáp nặng của đại vương nhất loạt xung phong; sư tử vàng cùng binh sĩ cầm đao từ hai cánh khép lại…” Đại sư ngưng hát, hỏi ngược lại: “Nếu nói sói tuyết cao nguyên chính là bò Yak, mọi người đã bao giờ thấy bò có nhiều màu sặc sỡ như vậy chưa?”

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lần lượt hiện lên những Hồng Ngao, Thiết Pháo Kim, Hải Lam Thú, Tuyết Ngao, Kim sư, mỗi con đều khiến tâm tình gã kích động bồi hồi, từ trước đến nay xúc cảm ấy vẫn chưa hề giảm sút. Chỉ nghe lạt ma Á La lại tiếp lời: “Thời cổ đại, loài chó đã được dân Tạng thuần hóa từ rất sớm, chúng là trợ thủ không thể thiếu để chăn nuôi gia súc, hình bóng con chó săn cũng xuất hiện rất nhiều trên các bức nham họa tiền sử. Nhưng trong các di sản nhân văn, lại không có mấy câu chuyện thần thoại truyền thuyết liên quan đến chó, mà các loài động vật khác cũng gắn bó mật thiết với dân Tạng như chim ưng, ngựa, bò Yak lại xuất hiện rất nhiều, lẽ nào mọi người không cảm thấy kỳ lạ hay sao? Đó là bởi vì, người ta đã đem danh hiệu sói tuyết cao nguyên tượng trưng cho chiến ngao đổ hết lên bò Yak đấy mà thôi.”

Giáo sư Phương Tân khiêm tốn nói: “Cám ơn đại sư đã cho chúng tôi biết nhiều thông tin rất hữu ích, tôi sẽ kiểm chứng lại thật kỹ càng.”

Lạt ma Á La đột nhiên nhận ra mình đã động lòng mà nói hơi nhiều, vội vàng chắp hai tay, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, ngồi xuống nói: “Phải rồi, tôi còn cần phải nói với mọi người về chức nghiệp thao thú sư này một chút. Trên chiến trường, họ có vai trò hết sức quan trọng. Những thao thú sư đã được Tạng vương Tùng Tán can Bố thay đổi hoàn thiện còn sở hữu cả năng lực thao túng điều khiển nhiều loại động vật khác nhau, về sau phát triển lên, bọn họ càng lúc càng thêm hiểu biết về bản tính của động vật, thậm chí không cần phải chuyên thuần dưỡng mọt loài động vật nào đó, mà chỉ cần dựa vào đặc tính sinh lý của chúng là có thể thao túng lợi dụng được rồi. Lấy sói làm ví dụ, khứu giác của sói rất nhanh nhạy, lại có trí nhớ rất dai, có thể nhớ rõ mùi của kẻ thù. Kẻ điều khiển thú lợi dụng chính đặc điểm khứu giác nhanh nhạy này của chúng mà dùng một thứ mùi đặc thù nào đấy làm cho bầy sói bị chọc giận, sau đó đem thứmùi này phun lên người kẻ địch, như thế, cả đàn sói sẽ tự động tấn công những người mang mùi đó, một cách nhưvậy, đồng thời cũng thích hợp để dùng với ong bắp cày, gấu chó và nhiều loài động vật khác. Ngoài ra, thao thú sư còn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác để điểu khiển các loài động vật mình muốn tấn công mục tiêu định trước, vì vậy, có một điều luật vẫn lưu truyền từ cổ chí kim, đó chính là, không bao giờ được đối đầu với một thao thú sư trong chốn rừng sâu đầy dã thú.”

Nghe lạt ma Á La nói với giọng hết sức nghiêm túc, Mẫn Mẫn không khỏi lấy làm kỳ lạ: “Tại…tại sao lại nói chuyện này với chúng cháu vậy, đại sư?”

Lạt ma Á La nói: “Bởi vì, trong đám kẻ địch của chúng ta, rất có khả năng có một thao thú sư!”

“Cái gì hả?” Nhạc Dương nhảy dựng lên như bị ong bắp cày đốt, kinh hãi kêu toáng lên. “Không, không phải nói là đã tiêu vong hết rồi sao? Sao lại, sao lại có thể ở trong đám kẻ địch của chúng ta…”

Lạt ma Á La ra hiệu cho anh chàng chớ nên nóng nảy, từ từ giải thích: “Chuyện này chỉ là do tôi suy đoán thôi, có điều khả năng chính xác rất lớn. Tôi nói các thao thú sư dần tiêu vong, chứ không bảo họ đã tuyệt tích. Mặc dù ngày nay mọi người không còn thấy thao thú sư ở Tây Tạng nữa, nhưng vậy không có nghĩa là ở nơi khác cũng không có. Còn nhớ chuyện xảy ra trong rừng rậm châu Mỹ không? Thuyền của nhóm các cậu trong một đêm đã bị mối mọt ăn sạch, kế đó lại đen đủi gặp phải bầy ong sát nhân, báo châu mỹ, ếch độc, kiến hành quân vây bức truy đuổi, theo lý thì chúng ta lần lượt xuất phát, chẳng có lẽ nào các cậu lại liên tiếp gặp vận rủi, bao nhiêu dã thú hung hãn đều gặp phải hết như thế. Về sau tôi mới chú ý đến, Cường Ba thiếu gia từng kể rằng trước khi xuất phát cậu đã bị một người thổi rắn tấn công trên đường phố Putumayo, trên đường đi, lại có một con chim cắt đớp mất tín vật cô Babatou tặng cho các cậu. Vậy là tôi cứ nghĩ mãi, nếu nói lần đó ở trong rừng, có một thao thú sư bám theo các cậu, vậy thì những gì các cậu gặp phải không còn kỳ lạ nữa rồi.”

Trương Lập căng thẳng nói: “Hắn, hắn muốn làm gì? Chẳng lẽ lại muốn dùng bọn động vật ấy giết chết chúng tôi?”

Lạt ma Á La nói: “Không, nếu hắn muốn giết các cậu, các cậu sớm đã chết rục từ lâu rồi, rừng rậm tuyệt đối là lãnh địa của thao thú sư. Ý đồ của hắn thật khiến người ta khó hiểu, chính vì thế mà tôi mới không nghĩ đến thao thú sư, cho đến lần này từ Đảo Huyền Không tự trở về, nhìn thấy bồ câu điều khiển từ xa trong đoạn phim của giáo sư quay lại, khiấy tôi mới liên tưởng đến chức nghiệp đặc thù này.”

Nhạc Dương lại hỏi: “Thế nghĩa là thế nào?”

Lạt ma Á La đáp: “Chức nghiệp thao thú sư này không phải là không bao giờ thay đổi, bọn họ cũng cùng tiến lên theo thời gian, trước nay vẫn xuất hiện ở trên chiến trường. Chẳng hạn trong thế chiến II có những lực lượng vũ trang phi chính quy như đại đội cảnh khuyển, bồ câu đánh bom…Mới rồi trong Đảo Huyền Không tự, kẻ địch của chúng ta không những có thể điều khiển được bồ câu, mà còn thao túng cả chuột bạch nữa, năng lực như vậy, người bình thường làm sao có? Về sau tôi có hỏi giáo quan Lữ Cánh Nam, cô ấy cho biết một số tin tức, đã kiểm chứng suy nghĩ của tôi chính xác.”

Mọi người lại dồn ánh mắt sang phía Lữ Cánh Nam. Mặc dù cắm cúi viết lách, nhưng Lữ Cánh Nam vẫn để ý lắng nghe cuộc thảo luận. Cô đặt tài liệu xuống, nói với mọi người: “Còn nhớ cái người tên là Soares Kahn mà giáo sư Phương Tân nhắc đến không? Tuy rằng lúc ấy chúng tôi chưa chú ý đến y lắm, nhưng sau đó chúng tôi vẫn không bỏqua bất cứ đầu mối nào mà tiến hành điều tra về người tên Soares này. Sự thực đã chứng minh, khi mọi người gặp nạn trong rừng già Châu Mỹ, y cũng không ở trong nước; lần này chúng ta đến Đảo Huyền Không tự, y lại một lần nữa rời khỏi nước Pháp, hành trình được sắp xếp rất chặt chẽ, đi một vòng lớn từ châu Phi đến Bắc mỹ, cuối cùng thì không rõ hành tung ở đâu. Mặc dù không thể chứng minh y có quan hệ trực tiếp gì với sự kiện lần này nhưng cũng rất đáng ngờ.”

“Soares Kahn” Giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La dò hỏi, tựa như không dám tin vào tai mình.

Lạt ma Á La nói: “Phải biết rằng mỗi một thao thú sư, chắc chắn phải là chuyên gia trong lĩnh vực động vật học, chuyên gia trong các chuyên gia! Còn nữa, khi ở bên trong Đảo Huyền Không tự, lúc tôi và Merkin quyết đấu, từng chú ý thấy một cái bóng, khi đó đã cảm thấy rất quen rồi, sau đó trở về nhớ lại, thì người đó chính là kẻ đã xuất hiện trong địa cung Ahezt, đồng thời cũng chính là người mà giáo sư cảm thấy rất giống Soares Kahn!”

Giáo sư Phương Tân bóp bóp trán, dù thế nào cũng không dám tin. Còn Trác Mộc Cường Ba lại đột nhiên được lạt ma Á La gợi điều gì đó, sực nhớ ra một chuyện khác. Căn phòng nhất thời chìm vào tĩnh lặng, không khí tức khắc trở nên căng thẳng lạ thường. Nhạc Dương và Trương Lập ngồ một bên rầm rì thảo luận: “Có lầm không đấy, một tên Merkin chúng ta đã chẳng biết đối phó thế nào rồi, giờ lại thêm một tên thao thú sư Soares gì đó nữa.”

“Đúng đó, anh sờ thử mà xem, tim tôi nhảy lên tận đây rồi này.”

“Sờ cái đầu cậu ấy, phải rồi, ở Tây Tạng có động vật nguy hiểm gì cho hắn thao túng không nhỉ?”

“Ừm, để tôi nghĩ xem nào, hình như báo tuyết còn ít lắm, không biết có còn hổ không nữa, ừm! Nghe nói hình nhưcòn có sói! À! Còn chuột cao nguyên nữa! A! Chỉ cần hắn xua một đàn bò Yak hoang đến là chúng ta đã không xơi nổi rồi, cái thứ ấy thì nhiều lắm.”

Lạt ma Á La an ủi hai người: “Không cần căng thẳng như vậy, thần hồn nát thần tính. Dựa vào những hiểu biết của chúng ta về kẻ nghi ngờ là thao thú sư này, dường như hắn mới chỉ có thể điều kiển một số động vật nhỏ hoặc côn trùng, chưa chắc đã khống chế được động vật cỡ lớn đâu, chỉ cần cẩn thận một chút, thì chúng ta vẫn đối phó được.” Chỉ là đại sư không hề hay biết rằng, lần phán đoán sai lầm duy nhất này của ông đã mang đến một hiểm họa tiềm tàng vô cùng to lớn của họ sau này.

Trác Mộc Cường Ba thì cứ nhăn trán vò đầu suy tư: “Cái bóng lưng, cái bóng lưng trong Đảo Huyền Không tự! Bóng lưng, bóng sau lưng của kẻ đó, hắn là ai nghỉ? À, Merkin!” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên buột miệng thốt lên: “Tôi nhớ ra rồi, đúng là tôi đã từng gặp Merkin! Lúc đó tôi vẫn còn chưa biết Tử Kỳ Lân và cả Bạc Ba La nữa.”

Một lời này của Trác Mộc Cường Ba lại khiến mấy người xung quanh thêm một phen kinh ngạc! Gã liền kể lại câu chuyện mình vửa nhớ ra.

“Tiêu tiền vào những chỗ thế này, thật đúng là…” Đứng trước công trình kiến trúc nguy nga lộng lẫy đó, Trác Mộc Cường Ba thầm khinh rẻ thói phô trương xa xỉ của đám nhà giàu. Nếu không phải biết rõ mình đang đứng ở khu ngoại ô Philedenphia, gã đã ngỡ mình đến lầm khu villa sang trọng trên đảo Rhode rồi.

Phía chính diện tòa biệt thự này sử dụng kết cấu kiến trúc miếu thờ Hy Lạp cổ đại, mấy chục cây cột lớn cao chừng hai chục mét, đường kính khoảng mét rưỡi chống mái nhà chao nhất, những tác phẩm điêu khắc phong cách Phục hưng vô cùng xa hoa xuất hiện ở khắp các cột, trên cửa, trên tường và cả trên mái trần. Theo lời người giúp việc ra mở cả, những phần lấp lánh ánh vàng đó toàn bộ đề dùng vàng 24 cara lỏng phủ thẳng lên; pha lê và các loại bảo thạch đủ màu sắc đều được tuyển lựa kỹ càng từ tận nguồn cung cấp; các tượng điêu khắc đều là tác phẩm của nghệsĩ nổi tiếng, bởi vì chũng không phải tác phẩm điêu khắc hiện đại, mà được di dời toàn bộ từ các trang viên cổ khác đến đây.

Vào trong đại sảnh, sàn nhà được lát toàn bằng gạch men sứ xanh vuông vắn mỗi chiều ba mươi centimet. Nhưthể khoe khoang, người giúp việc ấy lại cho Trác Mộc Cường Ba biết, những viên gạch men sứ cỡ lớn này đều là sứThanh Hoa chính tông, những người biết loại này rất hiếm, trên thị trường muốn mua một viên cũng phải ấy chục nghìn đô la Mỹ. Sau đó lại nói đèn chùm pha lê là phong cách gì thế kỷ mấy, cái đèn treo tường là tác phẩm đắc ý của nghệsỹ nào, bích họa có ý nghĩa gì. Trác Mộc Cường Ba căn bảnn không nghe lọt tai trong lòng đã ngấm ngầm có chút ác cảm với chủ nhân nơi này rồi. Trong điện thoại người bạn giới thiệu đã nói với gã, có một vị tên là Merkin rất thích chó ngao của công ty gã huấn luyện, muốn mua về canh nhà, còn kể tay Merkin này tài ba thế nào, cái gì mà là giáo quan danh dự của quân đặc chủng Hoa Kỳ, mặc quân trang hết sức oai phong lẫm liệt vân vân và vân vân. Trác Mộc Cường Ba cũng không coi vào đâu, với những gì gã vừa nhìn thấy, tay Merkin này có vẻ giống với một kẻ giàu xổi, không thểkìm nén được mà muốn đem hết sự giàu có xa hoa của mình bày ra trước mắt mỗi một người bước chân vào tòa cung điện này. Đối với Trác Mộc Cường Ba, tòa biệt thự này quá lớn, lớn đến nỗi không giống nơi cho người ở. Khi gã đứng đó, đèn đuốc còn chưa bật sáng hết, tòa biệt thự lại càng giống những lâu đài âm u lạnh lẽo đáng sợ của bọn ma cà rồng. Sâu trong đại sảnh vẳng ra tiếng gầm gừ của dã thú kèm với tiếng bước đi lê theo xích sắt nghe đầy bất an, lấp ló những đôi mắt màu da cam sáng rực càng khiến người ta không lạnh mà run.

Tay giúp việc kia vẫn không ngừng bô lô ba la liến thoắng, rằng trong đó có ba con cho Saint Bernard, ở một chỗkhác xích hai con báo đen, ở cuối hành lang phía Đông còn có hai con chó chăn cừu Ovcharka…Trác Mộc Cường Ba bắt đầu thấy hơi phẫn nộ, ở đây đã có nhiều mãnh thú như thế rồi, còn mua chó ngao làm gì nữa? Hơn nữa nhìn bộdạng này, hắn ta căn bản không hiểu thế nào là nuôi chó, hoàn toàn chỉ là nô dịch chúng mà thôi, hạng người này thì Trác Mộc Cường Ba hết sức coi thường.

Đẩy một cánh cửa nữa ra, bên trong lại càng tối tăm hơn. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên có cảm giác gã đến nơi đây là một sai lầm. Xem ra chủ nhân căn biệt thự này cũng giống như bản thân nó vậy, bề ngoài thì hào hoa lộng lẫy, nhưng nội tâm lại hết sức tăm tối. từ lối nuôi nhốt đám mãnh thú kia của y là có thể thấy con người này quen sống trong bóng tôi, lúc nào cũng giữ thái độ cảnh giác tuyệt đốt với tất cả mọi thứ xung quanh minh, không tín nhiệm kỳ ai. E là cả lúc đi ngủ cũng cầm súng nữa cùng không chừng. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ.

Khi họ thực sự gặp mặt, Trác Mộc Cường Ba lại càng tức đến bốc hỏa trong đầu. Thằng cha kia không ngờ lại ngồi xoay lưng lại với gã, mặt hướng ra khung cửa sổ lớn kiểu Pháp, chỉ để Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy đường nét sau lưng. Trác Mộc Cường Ba đã giao thiệp với nhiều loại người khác nhau, nhưng cao ngạo và coi thường gã nhưthế này thì đây mới là lần đầu tiên gã gặp phải, liền quay đầu định bỏ đi luôn. Bóng người kia bỗng cất tiếng: “Ông Trác Mộc Cường Ba, rất vui được gặp ông.”

Trong bóng tối duy chỉ có cặp mắt kia là phát ra hai luồng sáng lạnh lẽo. Nhiệt độ không khí trong căn phòng lập tức giảm xuống, bị cặp mắt ấy nhìn chằm chằm, cảm giác như thể đối mặt với loài rắn độc, còn cái thân hình cao lớn trong bóng tối kia thì chẳng khác nào một thi thể vừa bò ra khỏi mộ, tưởng như là hóa thân của loài ma quỷ chốn âm ti vậy.

“Nghe nói ông nuôi chó, tôi muốn kiếm mấy con về trông nhà, chỉ là không biết chó của ông có khỏe hay không? Vì thế, tôi hy vọng, chó của ông có thể thắng chó của tôi nuôi…”

Y còn chưa nói hết câu, đã nghe Trác Mộc Cường Ba “hừ” mạnh một tiếng, nói: “Tôi nghĩ là mình đến nhầm chỗrồi, chó của công ty chúng tôi quyết không bán cho ông, một cọng lông cũng không. Loại người như ông, chi bằng đi mua mấy con chuột chũi về mà nuôi, tạm biệt và không gặp lại!”

Trác Mộc Cường Ba đẩy cửa đi thẳng ra ngoài. Ở một nơi thế này, lại bị kẻ đó dùng ánh mắt ấy nhìn chằm chằm như vậy, gã không thể chịu đựng thêm một phút nào nữa.

Merkin lẩm bẩm: “Thằng lái buôn Trung Quốc vô tri, chẳng có phong độ gì hết. Mày tưởng mày là ai chứ?”

Max lập tức hiện ra trong bóng tối, hỏi: “Có cần thịt nó không ông chủ?”

Merkin hỏi ngược lại: “Mày…tưởng mày là xã hội đen à?”


Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy đấy, tôi chỉ nhìn thấy bóng lưng của thằng cha đó, chứ không thấy mặt, vì vậy lúc nhìn thấy tên của hắn, mới cảm thấy rất quen.”

“Không thể nào vậy chứ!” Nhạc Dương kêu lên: “Làm gì có chuyện khéo thế, đem đi viết thành sách bán lấy tiền cũng được đấy.”

Lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam ngấm ngầm đưa mắt nhìn nhau, người này nhìn thấy sự nghi hoặc trong mắt người kia. Trác Mộc Cường Ba lại tiếp lời: “Tôi không biết đây có phải chuyện trùng hợp hay không, nhưng đúng là trước đây tôi và hắn đã tiếp xúc một lần rồi.”

Mọi người nêu ý kiến của mình, nhưng không ai nghĩ ra được cách giải thích nào hợp lý. Trương Lập đột nhiên “a” lên một tiếng, bộ dạng như vừa tỉnh ngộ ra điều gì đó, đến cả Nhạc Dương cũng phải nhìn anh chàng bằng con mắt khác, vội vàng hỏi: “Nghĩ ra gì rồi?”

Hồi lâu sau, Trương Lập mới quay sang hỏi lạt ma Á La: “Đại sư, chẳng phải ngài nói Tây Tạng có ba chức nghiệp bí truyền sao, cái gì mà Tây Tạng tam đại mật truyền sư gì đó? Ngài mới chỉ nói về thao thú sư thôi, còn hai loại nữa cũng cho chúng tôi biết luôn đi. Nếu bên kẻ địch lại xuất hiện thêm một tên mật truyền sư gì gì đấy, chúng tôi đều không biết đối phó thế nào đâu!”

Chuyện này đối với chuyện Trác Mộc Cường Ba vừa kể hoàn toàn chẳng hề ăn nhập, Nhạc Dương nghe xong liền trách móc: “Chúng tôi đang nghĩ xem chuyện giữa Cường Ba thiếu gia và Merkin là như thế nào, anh lại đang nghĩ cái gì đấy?”

Trương Lập làu bàu: “Thật là, đột nhiên sực nghĩ ra thôi mà.”

TAM ĐẠI MẬT SƯ TRUYỀN

“Không sao,” Lạt ma Á La nói, : “Chuyện của Cường Ba thiếu gia chúng ta lúc này chưa tìm ra được manh mối gì đâu. Mặc dù khả năng bên phía kẻ địch đồng thời xuất hiện cả ba chức nghiệp bí truyền là rất nhỏ, nhưng chúng ta không thể đảm bảo rằng Đạo quân Ánh sáng đã tuyệt tích hay chưa được.”

Trương Lập kinh hãi thốt lên: “Ối chà, sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ, nếu chúng ta tiếp tục tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, vậy chẳng phải sớm muộn gì cũng phải đối mặt với Đạo quân Ánh sáng hay sao? Chẳng may không hợp một lời, vậy chẳng phải là chết rồi không thể chết lại lần nữa à?”

Lạt ma Á La nói: “Cũng không cần phải lo lắng dến vậy, chúng ta tập luyện đâu phải uổng phí, cho dù về mặt thân thủ có chỗ thiếu sót thì cũng có thể dùng ưu thế trang bị mà bù đắp vào. Hơn nữa sao cậu có thể đoán định được chúng ta và họ một lời không hợp chứ? Đạo quân ánh sáng có tồn tại hay không, đến nay vẫn còn là một câu đố chưa có lời giải, người Qua Ba ấy chẳng phải đã nói, tất cả mọi người đều chết sạch rồi hay sao? Tóm lại, không cần phải quá căng thăng, nhưng nắm thêm nhiều thông tin thì cũng không có hại gì cho mọi người hết. Tam đại mật truyền sưcủa Tây Tạng lần lượt là: thao thú sư, phòng bao sư (mưa đá) và thức tàng sư(1). Thực ra, Tây Tạng cổ đại còn có rất nhiều nghề nghiệp thần bí khác nữa, chẳng hạn như ảo thuật sư, thiên táng sư(2) , cổ sư, khôi lỗi(3) sư…nhưng sở dĩ chỉ có ba chức nghiệp này được gọi là Mật truyền sư,là vì ở thời cổ đại, chúng là những nghề bí mật không truyền cho người ngoài, hơn nữa cũng không thể học trộm được.

Hai chức nghiệp đầu tiên, thao thú sư và phòng bao sư đều được sinh ra trong Đạo quân ánh sáng, thao thú sư thì tôi không cần nói nữa, phòng bao sư hay còn gọi là thiên khí chú sư, nghề nghiệp này ra đời là bởi khi hành quân đánh trận thường xuyên phải đi qua những núi tuyết lớn không dấu chân người, tạm gác chuyện đường sá gian khó hiểm trởkhông nói, riêng thời tiết đã có những biến đổi rất lớn, nếu không thể giúp quân đội có phản ứng trước khi thời tiết thay đổi, tổn thất sẽ vô cùng to lớn. Ngoài ra, còn cả những thương nhân từ xa đến, khách quý ở các nước lân bang, muốn ra vào cao nguyên đều phải vượt qua những con đường nhỏ hiểm trở ven núi rìa vực, lại còn cả thời tiết thay đổi thất thường nữa, nếu họ thường xuyên gặp phải chuyện bất trắc giữa đường, thì thông thương qua lại giữa cao nguyên và thế giới bên ngoài sẽ gặp phải trở ngại rất lớn. Vì vậy, Tạng vương đã hạ lệnh chọn ra trong Đạo quân Ánh sáng một số binh sĩ giỏi quan sát, lại có trí nhớ tốt chuyên nghiên cứu các yếu tố khác nhau dẫn đến thời tiết thay đổi như tầng mây, hướng gió, độ ẩm không khí, từ đó mới sinh ra chức nghiệp phòng bao sư này. Thời kỳ đầu, vai trò của phòng bao sư giống như là nhân viên dự báo khí tượng ngày nay vậy, chỉ có điều là hiện nay người ta dùng ảnh mây vệ tinh để phân tích mà đưa ra dự đoán về tình hình thời tiết của hai mươi bốn giờ sau đó, còn các phòng bao sư khi ấy chỉquan sát tầng mây và tinh tượng mà đưa ra được kết luận tương đồng. Đến thời kỳ sau đó, khi Đạo quân Ánh sang đã phát triển hoàn thiện, phòng bao sư lại có thêm một chức năng mới, đó là trực tiếp tham gia vào chiến tranh, tạo ra gió lớn, mưa to, mưa đá ở những nơi kẻ địch cho rằng không thể xuất hiện gió lớn, mưa to, mưa đá, giáng cho quân địch những đòn nặng nề.”

Nhạc Dương không nén được thốt lên: “Chuyện…chuyện này hơi khoa trương thì phải, chẳng lẽ đại sư lại kểchuyện dân gian…”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, không khoa trương chút nào cả, mặc dù phòng bao sư ra đời cách chúng ta từ rất lâu rồi, nhưng nghề nghiệp này vẫn tồn tại kéo dài cho đến mãi trước giải phóng. Hồi nhỏ tôi đã từng tận mắt trông thấy một vị phòng bao sư xua mây đi, ngăn không cho mưa đá rơi xuống. Tôi biết là nghe ra có vẻ rất khó tin, cũng rất không khoa học, nhưng đây là một sự thực. Chuyện này có liên quan đến tư tưởng triết học của người Châu Á chúng ta. Tổ tiên chúng ta chỉ coi trọng kết quả, còn những người phương Tây lại chú trọng đến nguyên nhân. Trong suy nghĩ của bọn họ, nếu không thể làm rõ nguyên nhân dẫn đến kết quả này thì hẳn là phi khoa học. Như Trung Y chẳng hạn, cho đến ngày nay vẫn có nhiều người phương Tây không thừa nhận đó là y học có tính khoa học, vì có rất nhiều phương pháp và mẹo trị bệnh không thể giải thích bằng khoa học được, nhưng cũng không thể vì không giải thích được nguyên nhân, mà phủ định đi hiệu quả trị liệu của Trung y được phải không. Phòng bao sư cũng vậy, Trung quốc cổ đại có một môn gọi là phong thủy học, cũng không thể từ bình diện khoa học mà giải thích rõ nguyên nhân, vảchuyện nọ có tác dụng thực sự hay không…thì cũng rất khó nói, nhưng tôi cho rằng cách làm của phòng bao sư tuy khác nhưng cũng có cùng hiệu quả với phong thủy sư. Tôi còn nhớ hồi nhỏ đã từng thấy vị phòng bao sư ấy làm phép. Ông ta cắm cờ ở cửa khe núi, đặt vài cái xe trâu xe ngựa ở giữa đường, hoặc di động một vài tảng đá lớn hay cây cối gì trên đỉnh núi, tất nhiên là cũng không thể thiếu được một số nghi thức và điều múa cầu khấn của tôn giáo, chỉ chốc lát sau đó, tầng mây tụ mù mịt đã tan biến mất. Phương Tây có một lý luận thế này, tôi nghĩ chắc mọi người đều nghe nói quá rồi, một con bươm bướm đập cánh trên Thái Bình Dương, đến châu Mỹ có khả năng diễn biến thành một cơn lốc lớn, đây gọi là hiệu ứng bươm bướm, dùng để giải thíc tính bất định và không thể dự báo của một số sự việc. Điều tôi muốn nói ở đây là, nếu nhất định phải giải thích một cách khoa học các hành vi của phòng bao sư, thì có lẽ là do cổnhân đã nắm bắt được quy luật nào đó từ lúc bươm bướm đập cánh đến lúc diễn biến thành cơn gió lốc cũng không chừng!”

Bọn Trác Mộc Cường Ba nghe mà thẫn thờ hết cả ra. Lạt ma Á La lại tiếp tục giải thích: “Phương pháp mà các phòng bao sư sử dụng rất khác so với phương pháp nghiên cứu khoa học ngày nay, có lẽ là dựa vào một sự kiện hết sức ngẫu nhiên ban đầu. Chẳng hạn như đầu tiên người xưa nhìn thấy mây đen che kín bầu trời, tiếp sau đó là mưa đổxuống, rồi lần thứ hai nhìn thấy mây đên che kín bầu trời, mưa lại đổ xuống, trong ký ức của họ sẽ dần hình thành một mối liên hệ, tức là mỗi khi mây đẹ che kín bầu trời, thì sẽ có mưa. Số lần mưa càng nhiều, mối liên hệ này không ngừng được củng cố, tự nhiên sẽ hình thành một quy luật, vậy là từ đó trở đi, người xưa đã biết, mỗi khi mây đen che kín bầu trời, chẳng bao lâu sau trời sẽ đổ mưa. Đây chính là tư duy triết học thuần phác nhất, nguyên thủy nhất, không cần biết tại sao, chỉ cần thấy kết quả như vậy là đủ rồi. Phòng bao sư cũng thế, hành vi của họ nảy sinh một cách ngẫu nhiên, trải qua vô số lần thử nghiệm, cuối cùng đã đạt được hiệu quả lý tưởng mà học mong muốn, đồng thời thời gian cũng xác định được nên sử dụng phương pháp nào là hợp lý, họ liền ghi lại phương pháp đó cho người đi sau tham khảo, thời gian trôi đi, các phương pháp được tích lũy mỗi lúc một nhiều, mỗi lúc một cụ thể tường tận hơn, Thếnhưng, nếu nhất định phải căn vặn, rốt cuộc là nguyên nhân gì dẫn đến mây đen tan đi hoặc mưa lớn đổ xuống thì họkhông biết, cũng không cho người ta một suy đoán nào. Đó, mọi người đã biết phòng bao sư là gì rồi, nhưng có lẽ sẽcảm thấy thức tàng sư còn huyền hoặc khó tin hơn nữa đấy.”

Giọng lạt ma Á La khàn đi, ông nhấp một ngụm nước cho thấm giọng ,rồi nói tiếp: “Thức tàng sư, có thể nói là chức nghiệp có lịch sử lâu nhất, truyền thừa thần bí nhất. Trong tam đại mật truyền sư của Tây Tạng, thao thú sư đã tuyệt tích ở đất Tạng này, phòng bao sư thì có lẽ đã biến mất trên thế giới này rồi, nhưng thức tàng sư, có thể vẫn đang còn có truyền thừa tiếp nối. Bởi vì không một người nào biết ai là thức tàng sư cả, ai cũng có khả năng trở thành thức tàng sư, họ thường đột nhiên đốn ngộ trong một khoảnh khắc nào đó. Khụ khụ…” Giọng lạt ma Á La lại khản đặc. Nhìn vẻ mặt hoang mang của mọi người, giáo sư Phương Tân tiếp lời: “Tôi cũng biết một chút về thức tàng sư, để tôi nói với mọi người trước, nếu đại sư thấy cần bổ sung điều gì thì nói với tôi nhé.”

Lạt ma Á La cầm cốc nước lên, khẽ gật đầu.

Giáo sư Phương Tân nói: Tôi sẽ kể cho mọi người theo cách của mình nhé. Thức tàng và phục tàng là hai công việc bổ trợ, tạo điều kiện cho nhau. Phục tàng là gì? Bạc Ba La mà chúng ta đang muốn tìm kiếm, chính là phục tàng lớn nhất trên cao nguyên này. Ý là chỉ trước khi bị bức hại, các tăng lữ trong tôn giáo đã nhận được tin báo trước hoặc nhận ra điều gì đó, liền mang hết những kinh văn, bảo vật và tất cả những dồ quý trọng của mình đem giấu đi, để không ai có thể tìm được, đây chính là phục tàng. Mọi người phải biết rằng, các vị vương thời kỳ đầu của Thổ Phồn đều theo tín ngưỡng khác nhau. Mỗi khi có sự thay thế vương chủ với một tín ngưỡng khác tiên triều, đa phần thường xuất hiện cục diện một tôn giáo này đè nén một tôn giáo khác. Về sau, tuy rằng Phật giáo đã dần chiếm được thế thượng phong, nhưng trong Phật giáo lại xuất hiện rất nhiều phái hệ, mỗi phái hệ chia nhau dẫn đầu mấy chục năm, nên từ cổchí kim, trong lịch sử Tây Tạng xuất hiện rất nhiều phục tàng, triều đại nào cũng có hết. Những tăng lữ hoặc giáo đồBản giáo đã chôn vùi bảo vật kia hầu hết đều bị bức phải đi xa hoặc bị hại chết, nhưng cả đời cũng không bao giờ tiết lộ địa điểm đã chôn giấu báu vật. Những kho tàng chôn sâu dưới lòng đất ấy liền trở thành câu đố mãi không tìm được lời giải. Nhưng nếu một tôn giáo nào đó bị đề nén áp bức một thời gian, rồi chính quyền thay đổi, lại đột nhiên được tôn sùng, thì các tín đồ tôn giáo ấy lúc này tất nhiên muốn tìm lại bảo vật cùng kinh điển mà các bậc tiền bối của mình đã chon vùi, nghề khai quật kho tàng cũng theo đó mà sinh ra. Phương pháp của những người này khá khoa học. Những điều họ làm rất giống với những gì chúng ta đang làm lúc này, đó là dựa vào các đầu mối để lại trong bút ký, điển tích hoặc các truyền thuyết dân gian, sau khi nắm được chứng cứ xác thực thì tiến hành đào bới trong một phạm vi đại khái. Đây gọi là phái quật tàng, nhưng tỉ lệ thành công của họ rất thấp.”

Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không khỏi nở một nụ cười gượng gạo: “Nhưng trong rất nhiều phái quật tàng, lại xuất hiện một chức nghiệp cực kỳ khoa học, đó chính là thức tàng sư. Thức tàng sư có thể là người bình thường, hoặc là tăng lữ, cũng có cả cao tăng đắc đạo nữa. Bao giờ cũng là họ tình cờ đến một nơi nào đó, hoặc là đột nhiên đốn ngộ, vậy là hình thành nên một mối liên hệ thần bí nào đó với thần linh, sau đó họ sẽ nói với những người xung quanh, hoặc tự mình mang theo công cụ đến một nơi nào đó đào bới, có thể nói là bỗng dưng họ biết được bên dưới đó có chôn giấu kho tàng từ mấy trăm hoặc thậm chí cả nghìn năm về trước. Hừm, mọi người có tin không?”

Lạt ma Á La thấy mọi người đều mỉm cười, cùng lúc tỏ vẻ khó có thể tin được, chỉ có Trác Mộc Cường Ba là nhíu mày suy tư, rõ ràng là gã cũng biết về chức nghiệp thức tàng sư này. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân thở dài nói: “Tôi biết, chuyện này nghe thì có vẻ như là một việc hoàn toàn phản khoa học, nhưng đúng là nó có tồn tại. Hpn nữa tỉ lệthành công của cách thức tàng sư thường rất cao, gần như chưa bao giờ có chuyện bọn họ không đào được phục tàng cả, phàm là chỗ nào được thức tàng sư chỉ ra, thì đều được chứng thực là có bảo tàng cả.” Thấy mọi người có vẻ không tin tưởng lắm, giáo sư Phương Tân liền ngưng lại.

Nhạc Dương thấy thế liền hỏi luôn: “Giáo sư đã gặp thức tàng sư bao giờ chưa?”

“Chưa.” Giáo sư Phương Tân lắc đầu. “Có rất nhiều thức tàng sư cả đời chỉ có thể phát hiện ra một kho tàng nào đó, cũng có người phát hiện được hai ba chỗ, nhưng trường hợp này cực kỳ hiếm hoi. Trước khi bất ngờ hình thành mối dây liên hệ với thần linh, họ cũng chẳng khác gì người bình thường cả, thậm chí nhiều người còn chẳng hệ biết gì về phục tàng cả. Tất cả bọn họ đều đột nhiên nhận được một sức mạnh kỳ dị, có lẽ là nhận được …thần dụ hay hiệu triệu gì đó cũng nên. Còn nữa, rất nhiều người trong số họ sau khi phát hiện ra địa điểm phục tàng thì lại trở thành người bình thường. Chính vì vậy nên thức tàng sư mới gọi là mật truyền sư được truyền thừa theo phương thức thần bí nhất.”

Đường Mẫn lắc đầu: “Không thể nào, nhất định là truyền thuyết dân gian rồi.”

Giáo sư Phương Tân lại nói: “Phải, mới đầu tôi cũng không tin lắm. Có điều, tuy chưa gặp qua thức tàng sư nào, nhưng tôi đã từng gặp mấy vị nghệ nhân hát xướng được thần linh chỉ dạy, tôi biết địa chỉ của họ, ngay bây giờ cũng có thể dẫn mọi người đi gặp họ được luôn. Cường Ba cũng biết mà, phải không?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Đường Mẫn thắc mắc hỏi: “Nghệ nhân hát xướng được thần linh chỉ dạy là chỉ gì thế?”

Trương Lập nỏi: “người hát sử thi Cách Tát Nhĩ Vương ấy.”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Cách Tát Nhĩ Vương là bộ sử thi dài nhất, hùng vĩ nhất của Tây Tạng, à không, của toàn thế giới mới đúng. Những nghệ nhân hát xướng được thần linh chỉ dạy ấy hầu hết đều là dân du mục bình thường, thường là bị bệnh nặng, sốt cao một trân, hay là ngủ trên bãi cỏ nào đó tỉnh dậy, đột nhiên biết hát Cách Tát Nhĩ Vương luôn. Chẳng những vậy, ngoài Cách Tát Nhĩ Vương ra, họ còn biết hát những bộ sử thi khác nữa. Chúng tôi cũng bởi không tin, nên mới cất công đến thăm, nhưng không thể không thừa nhận, bọn họ hát rất hay, hay hơn đại sưÁ La nhiều.”

Đường Mẫn hồ nghi liếc mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba rồi hỏi tiếp: “Đúng vậy không, anh Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba nắm tay cô, gật gật đầu. Đường Mẫn lắc đầu nói: “Em không tin, nhất định là họ đã thuộc làu từ trước rồi, chỉ là không ai biết đấy thôi.”

Trác Mộc Cường Ba cười khổ, một chú bé chăn trâu mười bảy tuổi, hay thậm chí chỉ mười ba mười bốn, ung dung hát suốt bốn năm tiếng đồng hồ một bài sử thi dài mấy chục vạn dòng, mà lại còn sinh động dạt dào, giọng điệu truyền thần, cho dù có mời thầy về dạy cũng không giỏi đến thế được. Lúc nghe hát sử thi, gã có cảm giác những nghệ nhânấy dường như không phải đang hát thuộc lòng, mà họ đã hoàn toàn bước vào dị thời không nơi Cách Tát Nhĩ vương và yêu ma đại chiến, rồi chỉ miêu tả lại một cách chân thức những gì họ nhìn thấy mà thôi.

Nhạc Dương và Trương Lập cũng đều nghe nói về các nghệ nhân hát xướng được thần linh truyền dạy, nhưng chưa được nghe họ biểu diễn bao giờ, đối với chuyện này cũng bán tin bán nghi. Đột nhiên, Nhạc Dương phát hiện lạt ma Á La đang thong dong nhấp nước, anh đoán chắc chắn đại sư biết chuyện gì đó, và cũng có một lời giải thích cho chuyện này, giống như về trường hợp của phòng bao sư vậy. Lúc này, Đường Mẫn cũng quay sang lạt ma Á La định hỏi: “Đại sư Á La…”

Cô vừa mở miệng, lạt ma Á La đã ngắt lời: “Ta biết cháu muốn hỏi gì rồi, ta có thể nói với cháu một điều thế này, những gì giáo sư Phương Tân vừa nói đều là sự thật, cũng không hề khoa trương một chút nào đâu.”

Đường Mẫn hấp tấp: “Thế…”

Lạt ma Á La tiếp lời: “Chuyện này nghe thì có vẻ không có căn cứ khoa học gì, nhưng có một quan điểm có thểdùng giải thích, quan điểm này là do các nhà khoa học phương Tây đưa ra, họ gọi là ký ức di truyền.”

“Ký ức di truyền!” Mọi người cùng kêu lên kinh hãi, cả giáo sư Phương Tân cũng nghiêng tai lắng nghe.

“Đúng vậy,” Lạt ma Á La nói: “từ khi được nêu lên, quan điểm này đã bị đưa ra tranh cãi rất nhiều, cuộc tranh cãi cho đến ngày nay cũng đã kéo dài gần trăm năm rồi. Những quan điểm liên quan đến cuộc bàn luận này, nếu có thời gian mọi người có thể đi tra trong các tài liệu, ở đây tôi không nói nữa. Điều tôi muốn nói là, có lẽ tổ tiên của chúng ta đã nắm bắt được phương pháp nào đó khiến gen di truyền có thể mang theo thông tin về ký ức, truyền từ đời này sang đời khác. Vùng ký ức này ẩn trong một góc sâu của ý thức, cho đến khi gặp được điều kiện đặc thù nào đó, sẽđược kích hoạt nơi các hậu nhân thích hợp. Giống như giáo sư Phương Tân đã nói, sinh bênh, nằm ngủ một giấc trên bãi cỏ, hoặc đến một địa điểm đặc biệt nào đấy, đây đều là những cách có thể kích hoạt lại ký ức di truyền.”

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, hồi lâu cũng không thể giải thíc rõ ràng. Một lúc sau mới nghe Đường Mẫn lên tiếng: “Kỹ ức cũng có thể di truyền sao?”

“Đương nhiên,” lạt ma Á La nói: “Dê con vừa sinh ra đã biết chạy nhảy, cá vừa ra đời đã biết trồi lên mặt nước, chó con chưa mở mắt cũng biết tìm đầu vú chó mẹ, thuyết di truyền ký ức cho rằng, có một số động vật bậc thấp không bao giờ học hỏi được điều gì, chúng phải dựa vào ký ức di truyền mà sinh tồn. Ví dụ như bươm bướm chẳng hạn, cảđời con bướm phải trải qua bốn giai đoạn, trứng, sâu, kén, bướm, điều này khiến cho con bướm đời trước và con bướm đời sau vĩnh viễn không thể gặp được nhau, nhưng sau khi hóa bướm nó lại có thể lặp lại một cách chính xác hành vi của con bướm đời trước, thậm chí còn nhớ cả chặng đường di chuyển dài mấy nghìn kilomet. Nghe nói bướm vua ở châu Mỹ còn có thể dừng nghỉ trên đúng cái cây mà con bướm đời trước nó đã từng nghỉ ngơi, ai dạy chúng những điều này chứ? Làm sao để giải thích hành vi này? Vì vậy mới có người nêu quan điểm di truyền ký ức để giải thích những hiện tượng này. Con người chúng ta cũng không ngoại lên, có một số thứ được gọi là bản năng, đến một giai đoạn trưởng thành nhất định sẽ biến mất, nhưng có bản năng lại giữ được cho đến cuối đời. Chỉ có điều là cho đến ngày nay con người vẫn chưa tìm được phương cách nào hiệu quả để truyền bá tri thức và ký ức thông qua di truyền đấy thôi.”

Nhạc Dương nói: “Vậy thì người xưa làm được bằng cách nào?”

Lạt ma Á La mỉm cười lắc đầu: “Tư tưởng triết học phương Đông quyết định rồi, họ chỉ cần kết quả, không cần nguyên nhân. Người thời xưa đã không biết nguyên nhân, chúng ta ngày nay lại càng không có cách nào mà đoán biết được. Nhưng thức tàng sư và nghệ nhân hát xướng đều thực sự tồn tại, khiến chúng ta không thể không tin, đích thực là người xưa đã làm được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý của đại sư là, tổ tiên của những thức tàng sư ấy rất có khả năng chính là những người đã chôn giấu bảo tàng, còn tổ tiên của những nghệ nhân hát xướng được thần dạy, vốn chính là những nghệ nhân hát xướng kể chuyện thời cổ đại, tuy cách nhau vài đời hay thậm chí là vài chục đời, nhưng gặp phải một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, đột nhiên trong số con cháu bỗng có người có được ký ức của tổ tiên, vì vậy mới biết kho tàng được chôn giấu ở chỗ nào, và cũng có thể đọc thuộc lòng cả bộ sử thi dài mấy trăm nghìn dòng!”

Nhạc Dương nói: “Cách giải thích này cũng tạm chấp nhận được, chỉ là hơi quá huyền hoặc, người xưa liệu có thểnắm được kỹ thuật thần kỳ như thế không?”

Lạt ma Á La đáp: “Đây chỉ là một cách giải thích tương đối hợp lý trong rất nhiều cách giải thích về thức tàng sư, chúng ta cũng không có cách nào để chứng minh mà chỉ có thể tạm thời tin vậy thôi. Thông thường, các thức tàng sưsẽ đột nhiên có một đoạn ký ức khi đến gần hoặc ở nơi chôn giấu bảo tàng, điều này khá là khớp với thuyết ký ức di truyền, những hoàn cảnh tương đồng có thể làm khơi gợi lại ý thức tiềm ẩn, cũng khá là giống với tình trạng hiện nay của Ba Tang. Chúng tôi gọi quá trình đột nhiên sở hữu ký ức không nằm trong trải nghiệm bản thân này của thức tàng sư là thức tỉnh.”

Trác Mộc Cường ba run bắn người lên như bị giật điện. Khi các trưởng lão thôn Công Bố nói đến chuyện “thức tỉnh”, nhiều lắm gã chỉ cười cười cho qua, nhưng giờ nghe lạt ma Á La nói vậy, có vẻ như đúng là có chuyện như thếthật. “Mình sẽ …thức tỉnh thật sao?” Gã không nén nổi mà thầm tự hỏi.

Mẫn Mẫn lại rót cho lạt ma á La một cốc nước khác. Ông mỉm cười nói tiếp: “Được rồi, vừa trở về đã nói bao nhiêu chuyện với mọi người rồi, để tôi đi nghỉ ngơi một lát nhé, được không?”


Lạt ma Á La một mỉnh ngồi tĩnh tọa trên giường. Không lâu sau, Lữ Cánh Nam bước vào, cất tiếng hỏi luôn: “Sao rồi à?”

Lạt ma Á La thở dài: “Chỉ sợ chuyện con lo lắng nhất đã xảy ra rồi.”

Lữ Cánh Nam nhíu mày, sau đó nói: “chuyện này cũng dự đoán được, nhưng còn chuyện Cường Ba thiếu gia vừa kể…”

Lạt ma Á La nói: “Đây đúng là một chuyện quái dị.”

Lữ Cánh Nam nói: “Á La đại nhân, ngài nói xem liệu có phải Merkin cố ý…”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không thể nói vậy, lúc đó Cường Ba thiếu gia đến cả Tử kỳ lân ở đâu còn chẳng biết, ba chữ Bạc Ba La kia lại càng chưa từng nghe nói đến, hơn nữa quan trọng nhất là hắn muốn gặp Cường Ba thiếu gia để làm gì? Lẽ nào hắn biết thuật tiên tri? Muốn xem mặt đối thủ trong tương lai thế nào? Còn nữa, dựa vào biểu hiện sau này, có thể thấy Merkin cũng cảm thấy kỳ lạ khi một thương nhân nuôi và kinh doanh chó ngao Tây Tạng đột nhiên lại biến thành đối thủ cạnh tranh tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu với mình. Cường Ba thiếu gia từng thấy bóng Merkin hai lần ở nhà mình và trong khách sạn, chứng tỏ từ lúc đó hắn mới bắt đầu để ý điều tra thân phận của cậu ấy, hơn nữa còn theo dõi cậu ấy, bắt cóc kẻ điên người Qua Ba, một loạt sự kiện này đều là do một tay hắn lên kế hoạch. Cũng nghĩa là, lúc gặp Cường Ba thiếu gia lần đầu tiên, tên Merkin này căn bản không hề hiểu gì về Cường Ba thiếu gia, cũng chẳng buồn để tâm đến cậu ấy. Không thông, không thông!” Lạt ma Á La ngửa mặt lên trần nhà nói: “Không thông, không thông!”

Lữ Cánh Nam cũng trầm ngâm suy nghĩ: “Vậy thì lần đầu Merkin và Cường Ba thiếu gia gặp mặt đúng là một sựtrùng hợp ư?”

Lạt ma Á La gật đầu: “Trước mắt, chúng ta chỉ có thể đặt giả thiết là như vậy thôi.”


1. Thao thú điều khiển thú vật; phòng bao: đề phòng mưa đá; thức tàng: nhận biết các kho tàng.

2. Sâu độc

3. Con rối.

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 89

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.