Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

ĐỘI QUÂN CỦA THẦN

Phiên bản Dịch · 18409 chữ

Nhóm dịch : valvrareteam

Chương 4 : Đội Quân Của Thần

Đã bốn ngày trôi qua kể từ khi Yukinari và Dasa tiêu trừ đám ngoại thú. Một túp lều nhỏ đã được dựng lên một cách hết sức vội vàng tại thánh địa—hay đúng hơn là tại phiến đá lớn từng được biết đến với cái tên thánh địa. Họ dựng nó bằng cách tận dụng gỗ xẻ mà nhà Schillings đã định dùng để xây kho trên một lô đất trống, và kết quả—mặc dù mọi người đều gọi nó là túp lều—là khoảng cỡ một ngôi nhà tầm trung.

Tuy nhiên, bởi lẽ vật liệu đã gần như sắp sửa trở thành một phần của căn nhà kho, nên nội thất đơn giản là không màu mè; chỉ có mỗi một phòng. Thoáng đãng theo một cách riêng, nhưng lại không hoan nghênh một cách kỳ lạ. Thực sự, rộng hơn mức cần thiết—mặc dù đó không phải lý do khiến nó có vẻ lạnh lẽo như vậy.

Yukinari ngồi ở một góc, nhìn căn phòng với những ghế và giường ngủ, cùng ít đồ đạc trông giống đồ thừa từ thị trấn. Và vì một lý do nào đó, còn có cả Berta, ngay bên cạnh cậu trên chiếc ghế giống ghế dài.

“Không có ý gì đâu, cơ mà, ừm, Berta nè…”

Cô chớp mắt và nhìn cậu khi cậu nói. “Dạ? Ngài cần gì ư, Thưa Chúa Tể Yukinari? ”

Vẻ bần thần nhàn nhạt đeo bám cô vài hôm trước đã tan biến, thay vào đó là ánh nhìn thơ ngây, thuần khiết và trong trắng. Khóe miệng cô khum lại thành một nụ cười, có lẽ là vì Yukinari đã nói chuyện với cô, hay thậm chí đúng hơn, là bởi cậu đã gọi tên cô ấy.

“…tại sao cô lại ngồi đây?”

“Thứ lỗi?” Dường như cô không hiểu cậu đang hỏi gì. Nhưng sau một hồi nghĩ ngợi, cô mỉm cười và nói, “Vì đây là chỗ mà ngài đang ngồi, thưa đức chúa tể.”

“Ừ, thì, đúng là câu đó không có hai cách hiểu…”

Cậu ít quan tâm đến việc cô ấy ngồi đó hơn là cách mà cô đang ngồi—cụ thể là cái cách cô ấy gần như đang âu yếm cậu. Thực sự cơ bản mà nói thì giữa hai người chẳng hề có khoảng không gian riêng tư nào cả. Và cứ mỗi khi Yuki ngồi xuống bất kì chỗ nào, Berta sẽ lại lạch bạch đi đến và bám dính lấy cậu theo cùng một kiểu.

“Ý tôi là, tại sao cô lại ngồi… cạnh tôi… như thế?”

Ngay khi cậu vừa dứt lời Berta liền tròn mắt và vội vàng phủ phục xuống nền đất.

“Xin lỗi, thưa Chúa Tể Yukinari! Em đã quên mất vị trí của mình.”

Yukinari nhanh chóng cúi người xuống, nắm lấy hai bên vai và giật mạnh cô ra khỏi thế run rẩy quỳ lạy.

“Ê, thôi đi! Cô bị cái gì nhập thế hả?”

“Em đã xúc phạm ngài, thưa chúa tể!” Cô nói, mắt ướt đẫm. “Chắc chắn ngài sẽ trừng phạt em vì tội sỉ nhục này.”

“Sỉ nhục? Trừng phạt cô?”

“Vâng thưa ngài. Miễn là cần thiết để xoa dịu cơn giận của ngài. ”

Yukinari ngạc nhiên đôi chút. “Này, sao mà cô có thể—ý tôi là, khi cô nói về sự trừng phạt với cái ánh mắt đó, nó cứ khiến tôi cảm thấy… lạ lùng kiểu gì ấy.”

Biểu hiện của Berta gợi ý rằng cô ấy sẽ rất vui lòng tác hợp với các kiểu hình bạo dâm, nhưng thật không may cho cô là, Yuki lại quá đỗi y̶̶ế̶̶u̶ ̶s̶̶i̶̶n̶̶h̶ ̶l̶̶í̶ thuần khiết để chơi cái trò đó.

“Này nhé,” cậu nói, “Tôi thực sự không có ý thô lỗ hay chỉ trích gì đâu. Quên nó đi, được chứ? Chỉ cần… ngồi xuống thôi là được rồi.” Cậu làm cử chỉ bất lực tại chỗ mà Berta vừa bỏ trống.

“Vâng, thưa ngài!” Cô nói, trở lại chỗ ngồi của mình với khuôn mặt thực tình rạng rỡ. “Rất cảm ơn ngài.” Rồi cô ấy lại bắt đầu rục rịch, từng chút từng chút, cho đến khi lại sột soạt bên người cậu. Hiện cô đang mặc quần áo bình thường, nhưng hình ảnh của cô trong bộ cánh mỏng tang ấy cứ lởn vởn trong đầu Yukinari, khiến cậu đứng ngồi chẳng yên.

Bên đầu kia của chiếc bàn nhỏ, Dasa tia cậu với cái nhìn mù mịt.

“S—Sao vậy?”

“… Yuki.” Trông mặt cô nàng có phần sưng sỉa.

“Hử?”

“Đồ hám gái.”

“Nhưng anh còn chưa làm gì cơ mà!”

Sự thật là, tinh thần Dasa có vẻ đi xuống kể từ khi họ chuyển đến ngôi nhà này. Yukinari đã quyết định xin Fiona cho phép ở lại trong khu vực một thời gian. Như cậu đã cân nhắc, việc này chẳng dính dáng gì tới vụ thế chỗ thổ thần sất. Có thể thấy Dasa đã kiệt sức. Cậu làm việc đó là cho cô nàng. Tất nhiên, Dasa bị bắt làm con tin thì cũng không ổn cho cậu lắm, nên việc cho phép cô nàng ở lại với cậu ở thánh địa là một trong những điều khoản của cậu.

Nhưng cậu đã không ngờ là Berta cũng ở đó nữa.

Lúc này Dasa nhìn Berta và nói, “Berta, nhắc cho tôi nhớ tại sao cô lại… ở đây, nữa?”

“Tôi nghĩ chắc đó là điều hiển nhiên thôi,” cô nói với cái nhìn trống rỗng, hoàn toàn khác với phản ứng mới nãy với Yukinari. “Chúa Tể Yukinari đang ở đây mà.”

“Thế tại sao… cô lại phải ở nơi… mà Yuki ở?”

Berta trả lời mà không do dự dù chỉ một khắc. “Tôi thuộc về chúa tể của tôi. Là một vu nữ, tôi đã được dâng cho ngài ấy.”

Lúc này, sự bất mãn của Dasa lại càng trở nên sâu sắc.

Yukinari thở dài. “A, phe…” Đây không phải là lần đầu tiên họ trò chuyện kiểu này, hoặc là rất giống kiểu thế. Bởi rõ ràng nó thành một cái vòng lẩn quẩn, cậu bèn quyết tâm bỏ Berta ra khỏi tâm trí mình lúc này và nghĩ về điều minh sẽ làm kế tiếp.

Từ điểm xuất phát, có vẻ như họ sẽ sống tại căn nhà này trong tương lai sắp tới. Về cơ bản họ sẽ trở thành người giữ chỗ, hoặc là cho đến khi “những kẻ truy đuổi” tìm thấy họ, hoặc cho đến khi một vị thổ thần tốt hơn một chút—tốt hơn một chút theo nghĩa hiếm khi phải tranh luận với nó—xuất hiện.

Không giống như dinh thự Schillings, ngôi nhà nhỏ bé được xây trên phần còn lại của thánh địa thực sự không có mục đích gì hơn ngoài giữ cho các phần tử ở nguyên vị trí. Fiona đã nói rằng nếu cần gì thì cứ tự nhiên yêu cầu lúc nào cũng được, và cô ấy sẽ làm mọi việc trong khả năng để thấy nó được cung cấp kịp thời. Song việc thiếu hụt đến cả sự thoải mái nhỏ nhất của một con người khiến Yuki không chắc nên yêu cầu gì trước. Nơi này thậm chí còn chẳng có nhà vệ sinh.

Họ có thể sử dụng mấy bụi rậm bên ngoài, dĩ nhiên, và đã làm vậy. Nhưng sẽ chẳng cần đến một con ngoại thú để cho họ một quãng thời gian khốn khổ nếu bị nó bắt được với cái quần chưa kéo theo nghĩa đen— một con thú hoang là đủ rồi. Bởi vậy, Yukinari muốn giải quyết tình huống này càng sớm càng tốt.

Và nếu không có nhà vệ sinh thì thậm chí họ còn tắm được nữa. Riêng việc lấy nước, họ phải tới một đầm lầy lân cận hoặc ao hồ và tự múc về. Đó là một quá trình khổ ải. Một bồn tắm kiểu vậy thì chắc không khó làm cho lắm: chỉ cần đào một lỗ đâu đó xung quanh, vây nó bằng đá, là xong.

Một cái bồn tắm, hử…

Suy nghĩ của cậu thơ thẩn về cái đêm tại dinh thự Schillings. Và rồi đến Berta, khỏa thân hoàn toàn và khăng khăng rằng cô ấy đang “dâng mình” cho cậu. Cô ấy không có ngoại hình tốt, nhưng lại có đường cong ở tất cả các chỗ thích hợp. Chắc rồi, kích thích bỏ xừ đi được. Hay đúng hơn, trông cô ấy mềm mại—như thể ôm sát vào thì sẽ dễ chịu lắm.

” … Yuki. Anh lại đang nghĩ đến mấy thứ đồi trụy rồi.”

“Sao cũng được!” Yukinari xen vào phủ nhận điều đó. “Anh đang nghĩ về những điều sắp xảy đến.”

“Cái gì xảy đến cơ?” Berta nói. “Ý ngài là, như, tối nay ư? Liệu ngài sẽ để em dâng mình cho ngài chứ?”

“Giúp tôi một việc là đừng có gây mất tập trung nữa, okê?”

“Nhưng em…”

“Và dù sao thì, tôi đã bảo cô rồi cơ mà, cô không cần dâng mình cho tôi, hay phục vụ tôi, hay bất cứ điều gì cả!”

“Nhưng thế thì, em…” Cô hít một hơi sâu. “Thì em không thể ở bên ngài, Chúa Tể Yukinari.”

“Và một điều nữa tôi đã bảo cô là tôi không phải—”

Nhưng trước khi kịp nói hết câu, Yukinari lại nghĩ đến điều gì đó. Chắc hẳn Berta không còn nơi nào để đi trong thị trấn nữa.

Chừng nào Yukinari còn ở đó giả làm thổ thần, cả cô ấy hay bất cứ ai khác đều không phải trở thành vật hy sinh. Đối với người dân thị trấn, điều này có lẽ chỉ khiến nó giống như việc họ đã phải trả thuế để chu cấp cho những người mà giờ không còn tác dụng gì nữa. Sẽ là thế với tất cả lũ trẻ ở trại mồ côi, nhưng đối với Berta, người được chọn làm vật tế và sống sót trở về, thì sẽ là điều cực kỳ tệ. Nếu cô ấy muốn ở lại với Yukinari, thì, có lẽ cũng hoàn toàn có lí cả thôi.

Tuy nhiên, dù vậy…

“Nhìn xem, nếu không có gì khác, tôi không phải là thần nhé.”

Berta mỉm cười và phủ nhận cậu với một sự bình tĩnh lạ thường. “Điều đó không đúng. Ngài là thần của em, Đứa Chúa Tể Yukinari.”

Yukinari tự hỏi liệu có phải việc dụ dỗ các vị thần quanh đây là điều bình thường hay không, song cậu nhận ra rằng với một người còn chưa đến mức chạm vào cô ta như cậu, cô ấy hẳn chỉ đang cố gắng làm việc của mình theo cách tốt nhất mà cô ấy biết. Cố gắng ở với cậu.

“Mấy người có vẻ không hiểu gì rồi. Tôi không thể ‘trong non mảnh đất’ hay bất cứ điều gì mà các người nói là thần thổ đã làm. Làm cho mùa thu hoạch bội thu, gửi đúng lượng mưa vào đúng thời điểm.”

Người ta nói rằng thần thổ cắm rễ xuống đất, hòa làm một với những kinh mạch của vùng đất nó cai trị. Điều này cho phép nó, ở một mức độ nhất định, điều khiển được thời tiết và môi trường lãnh thổ của mình. Cứ cho là thông hiểu về kinh mạch của khu vực đi, nhưng việc sai khiến thời tiết thực sự là một năng lực thần thánh.

Đã từng có những điệu nhảy gọi mưa trong “thế giới trước của Yukinari”, một số trong đó thậm chí còn được khoa học cho thấy là có chút hiệu lực. Có vẻ nó là gì đó về những ngọn lửa thắp cho các buổi lễ đã tạo ra dòng không khí đi lên, khiến cho những đám mây làm… gì đó. Nhiêu đó thôi, Yukinari nghĩ có lẽ mình xoay sở được. Nhưng hơn thế thì sao?

“Để tôi hỏi cô nhé,” cậu nói, nghĩ đến bản đồ thị trấn và khu vực xung quanh mà Fiona đã cho cậu xem. “Tôi đã nghĩ về điều này từ lúc chúng ta ở chỗ Fiona. Chẳng phải có nhiều thứ mấy người có thể làm với đất đai thay vì dâng vật tế cho thổ thần và để chúng tiếp quản nó sao? Ý tôi là ngăn sông, các công trình thủy lợi, tạo giống cây trồng tốt hơn chẳng hạn. Đủ các thứ.”

Berta ngây người ra một chốc. “Ngăn… sông…?”

“Chuẩn rồi. Kiểm soát lũ lụt.”

“Kiểm soát… lũ…?”

“Đừng bảo là.”

“Em không… hiểu ý ngài là gì cả…” Nghe cô bối rối toàn tập.

Yukinari liền rống lên. “Biết ngay mà! Biết ngay là vậy mà!” Cậu ngẩng đầu lên và thở dài thườn thượt.

“Chúa Tể Yukinari …?”

“Yuki…?”

Berta và Dasa nhìn cậu, cả hai cô gái đều bối rối.

Nơi này không giống “thế giới trước của Yukinari”. Không giống theo một vài cách.

Chẳng hạn, ở đó không có sự cân bằng giữa phát triển công nghệ và văn hoá. Thật vậy, bất bình đẳng thực tế lại là tiêu chuẩn. Đã có những thời điểm và những nơi hoan nghênh các điều kiện thích hợp cho sự phát triển nhanh chóng của văn hoá hoặc công nghệ, và những điều ngăn chặn ở mức tương đương khác. Biến đổi địa chất—bao gồm cả việc dễ dàng hay không thể đi lại—có lẽ mang nghĩa lan truyền những ý tưởng mới ở một nơi chứ không phải ở một nơi khác. Xét tới Trung Quốc, hoặc châu Phi—các khu vực lớn mà có thể, nếu không được coi sóc, những khoảng cách hàng thế kỷ trong quá trình phát triển sẽ xuất hiện ngay tại những nơi đó. Và đấy là ở một thế giới có máy bay, xe lửa, ô tô—và trên hết là điện thoại và internet. Sự chênh lệch phát triển sẽ lớn tới mức nào tại một thế giới như thế này cơ chứ?

Tất cả những điều đó nói lên rằng tốc độ lan truyền những sự phát triển mới sẽ rất chậm. Thêm vào đó là truyền thống có khuynh hướng chống lại sự hội nhập của những ý tưởng mới: bằng chứng là Friedland đã tuân thủ các thoả thuận với thổ thần, và hệ thống hiến tế trong hàng trăm năm, cho đến khi nào còn có thể. Trên hết là, những người mà sinh kế của họ phụ thuộc vào truyền thống này—giống như các linh mục—cũng có thể kiếm được lợi nhuận từ nó. Những người sống theo phong tục cũ này cần nó. Điều này có nghĩa là dù thực tế đã lỗi thời như thế nào đi chăng nữa, bất kể nó có gớm guốc tới mức nào, nó vẫn sẽ không bị ruồng bỏ một cách dễ dàng.

Thật khó khăn cho những điều mới mẻ, dù là đối tượng hay ý tưởng, để vào một tình huống như vậy, và ngay cả khi chúng bước vào, thì vẫn còn khó khăn cho chúng. Để được chấp nhận, những điều mới mẻ đó phải có sức mạnh để xóa bỏ nền văn hoá hoặc công nghệ hiện tại bằng một cú chốt hạ.

Công trình đập và cải tạo đất đai không khác nhau là mấy. Cho đến thời điểm này, dân làng đã xoay sở được với đống vật tế cho thổ thần. Với họ vậy là đủ, và điều đó cướp đi của họ đến cả hạt giống của sự thúc đẩy để tìm kiếm một con đường mới.

“Mình đang dính vào cái gì đây …?”

Đối diện với hai cô gái đang nhìn mình tròng trọc, Yukinari thở dài thườn thượt.

Người nông dân bắt đầu một ngày từ sớm. Những cánh đồng rõ ràng không thể nằm ngay giữa thị trấn, vì vậy các trang trại cần thiết phải ở bên ngoài các bức tường thị trấn. Nhờ phúc đức của thổ thần, thị trấn hầu như an toàn trước các loài động vật nguy hiểm, nhưng ngay cả thế, người ta không thể chắc chắn khi nào chuyện gì đó sẽ xảy ra—vì vậy các nông dân ra đồng theo nhóm, luôn nắm rõ nơi của họ ở thị trấn, để có thể chạy về nếu cần thiết. Hôm nay, như mọi khi, công việc bắt đầu khi bầu trời còn mờ tối.

“Đến lúc bắt tay vào rồi!”

Da họ rám nắng do làm việc trên đồng nhiều giờ mỗi ngày. Những vết rộp trên ngón tay họ từ việc sử dụng thuổng, cuốc và liềm từ lâu đã vỡ ra và trở thành những vết chai. Họ là những người lao động, nhưng dù sao, vụ thu hoạch dường như vẫn rất mong manh. Cây cối không dễ trồng trong đất này, và vì các lý do đơn giản về địa lí, không gian cho các cánh đồng bị hạn chế. Nếu không có thỏa thuận với thổ thần, thì ít nhất một số người có thể đã chết vì nạn đói mỗi năm.

Những người đàn ông không ngần ngại nhấc thuổng lên và bắt đầu làm việc trên nền đất. Thi thoảng họ có thể nói chuyện, mà tay vẫn không ngừng chuyển động có trật tự, song chủ đề là các vấn đề thường nhật và đã sớm cạn kiệt. Vì vậy, họ trải qua hầu hết số giờ làm việc của mình trong im lặng.

“Hử?”

Cho đến khi một trong số họ, dành chút thời gian để lau mồ hôi từ trán của mình với miếng vải trải ngang qua cổ, nhận thấy một điều gì đó.

Một cái gì đó đang đi xuống những nẻo đường băng qua những cánh đồng—con đường chạy thẳng qua chính giữa Friedland.

Nó có thể là gì? Ban đầu, những người đàn ông nghĩ rằng đó có thể là một nhóm các thương gia đi du hành. Hầu hết là những người đi theo con đường này. Không có khách du lịch, bởi không có gì để thăm thú ở đây cả. Bất kể thứ gì họ có ở Friedland, các thị trấn khác cũng vậy; và họ cũng không có gì mà không thể tìm thấy ở nơi khác. Đó là định nghĩa của một vùng quê nghèo.

Nhưng không mất quá lâu để những người đàn ông nhận ra rằng không có thương gia nào cả. Những dáng hình bọc giáp toàn thây cưỡi ngựa đi đầu nhóm—rất có thể, là các hiệp sĩ. Phía sau họ có một chiếc xe ngựa phủ màn. Và đằng sau thứ đó—

“Trong lửa có gì?”

Một cỗ xe ngựa lớn, rõ ràng là được làm có mục đích, theo sau. Người nông dân đầu tiên lơ đãng nhìn đoàn diễu hành lại gần. Những người đàn ông còn lại, nhận thấy hành vi kỳ lạ của người đó, ngước lên từng người một, và rồi họ, cũng bị cuốn theo.

Cùng với các hiệp sĩ và hai cỗ xe là một số người hộ tống đi bộ. Họ cũng mặc áo giáp, dù thô sơ hơn các hiệp sĩ ‘. Trang phục của họ biểu lộ một vài khác biệt giữa cá nhân, các loại và các mẫu mã không đồng đều cho lắm. Nhưng tất cả họ đều có một điểm chung: dấu chữ thập đỏ.

Ai đó đã thốt lên tiếng thì thầm: “Đó là … Đó là Lệnh Truyền Giáo… Giáo Hội Chân Chính Harris…”

Chiếc xẻng rơi khỏi tay của người đàn ông lần đầu tiên nhìn thấy họ. Ông đứng dậy, mắt mở to, khi đoàn Lệnh băng qua với đội hình hẹp, hướng tới cổng vào Friedland.

“Vậy nó sẽ giống như thế này nhỉ, chắc vậy?” Yukinari nghiêng đầu, nhìn vào bản đồ nằm trên bàn.

Đó là một thứ th, được vẽ bằng bút chì trên giấy da cừu. Cậu nói với Berta rằng mình cần giấy da và bút chì, và Fiona đã nhanh chóng cung cấp cho họ. Công nghệ làm giấy có tồn tại ở thế giới này, nên có thể có được giấy thường. Nhưng giấy ở Friedland thì chất lượng kém, và rõ ràng sẽ không chịu được nhiều sự xô xát, vậy nên vào đó cậu đã chọn da cừu. Sắp tới họ sẽ sử dụng nó rất nhiều, và cậu muốn thứ gì đó bền bền chút.

Bút chì để họ có thể dễ dàng xóa bất cứ thứ gì họ viết hoặc vẽ, để sửa bất kỳ lỗi nào. Dasa là người đưa ra sự lựa chọn đặc biệt này. Trong những năm khi không thể nhìn thấy, cô đã giúp Jirina, đã có được nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong việc giải quyết các thủ tục giấy tờ và những thứ tương tự.

“Tất cả những gì thực sự quan trọng là hướng dòng chảy của sông.” Yukianri nói. “Cái đó, và bất kì ngọn đồi nào. Trông có đúng không?”

“Vâng,” Berta gật đầu nói. “Có một con sông ở đây, và một ngọn đồi nhỏ trong khu vực này.”

“Và thánh địa ở đây?” Yukinari chỉ vào một chỗ ở bên phải của bản đồ, chắc rằng mình chỉ đúng chỗ. Cậu đã đánh dấu thánh địa bằng vòng tròn kép. Thị trấn Friedland nằm ở trung tâm của bộ da. Họ đã đánh dấu độ cao tương đối của địa hình xung quanh.

“Yuki,” Dasa nói với một cái nhìn kỳ quặc, “anh… đang làm… gì vậy?”

“Hừm? Ờ…”

Khi nói rằng mình sẽ làm một cái bản đồ, cậu đã nêu chi tiết các yêu cầu về giấy và dụng cụ để viết, nên cậu nghĩ em ấy hiểu mình đang làm gì. Song cậu nhận ra rằng Dasa đã được—không phải che chở, mà là bảo bọc trong vòng tay của chị gái lâu tới nỗi em ấy đã học được rất nhiều từ các cuốn sách (phần lớn là về các chủ đề khác thường, như giả kim thuật), nhưng lại chẳng biết tí gì về thế giới rộng lớn hơn. Những thứ như địa lý và nông nghiệp hoàn toàn nằm ngoài kinh nghiệm của em ấy. Không phải bản thân Yukinari là một chuyên gia hay gì đó đâu.

“Có lẽ anh không thể thay đổi thời tiết hay mấy thứ thần thánh kiểu vậy, nhưng anh nghĩ mình có thể xoay sở được một vài thứ.”

Cô nàng có vẻ bối rối.

“Thử nghĩ mà xem. Nếu chúng ta thay đổi dòng chảy của con sông dù chí một chút, chúng ta có thể tạo thêm nhiều đất trồng trọt, phải không nào?”

“Liệu… có được không?”

“Chả lí gì mà lại không được cả. Ừm, để xem, đây…” Yukinari thầm điểm lại những dụng cụ mà Jirina từng có trong phòng thí nghiệm. “Em đã từng sử dụng máy cất trong thuật giả kim, phải không?”

“Vâng. Những cái bằng thủy tinh…”

“À-há. Và một vài trong số đó có những hình thù kỳ quặc, đúng không nào? Xoắn ốc các kiểu ấy?”

“Vâng,” Dasa nói sau thoáng ngập ngừng. “Em nhớ cái đó.”

“Thế, tại sao chúng lại có hình dạng như vậy? Để cho vui chăng?”

“Đó là một… cách hiệu quả để truyền dẫn… nhiệt bức xạ. Chờ đã… Ý anh là…?”

“Chính xác!” Cậu nói, nức nở. “Anh biết em là người nhanh trí mà, Dasa.”

Yukinari mỉm cười và gật đầu, cái nhìn trống rỗng xuất hiện trở lại trên khuôn mặt của Dasa trong giây lát, rồi cô nàng thoáng đỏ mặt và ngoảnh mặt đi.

“Nước chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp hơn, và nếu ta siết dòng chảy, nó sẽ mạnh hơn— thậm chí, đủ mạnh để làm quay bánh xe nước. Hay thử nghĩ về một con đập xem. Chúng ta có thể xây một cái cổng lũ. Làm ao chứa, qua đó kiểm soát dòng nước.”

“Em hiểu rồi …” Dasa dường như đã hiểu điều Yukinari đang nhắm tới, và tỏ ra khá ấn tượng. Berta, trái lại, vẫn hoàn toàn mù tịt. Cô ngồi với nụ cười ngập ngừng trên mặt, không nói nửa lời.

“Và không chỉ nước thôi đâu,” Yukinari tiếp tục.”Nếu thay đổi chất lượng ánh sáng trên đồng ruộng, ta có thể gây ảnh hưởng đến cách cây trồng phát triển. Chúng ta có thể để các sườn núi làm việc cho chúng ta.”

“…Đúng rồi, em chắc chắn,” Dasa nói vẻ cau mày. “Nhưng vậy còn… lao động? Thời gian? Công nghệ? Anh làm thế nào để… thực sự làm điều đó?” Dasa, vốn là trợ lý của một nhà giả kim thuật, hiểu rằng những thành phần không được nhìn nhận này thực chất là phần quan trọng nhất trong thành công của bất kỳ sự đầu cơ nào. “Và trong… trường hợp thay đổi địa hình… thì công cụ.” Bụp một cái. “…Ồ…”

Cô nàng có vẻ đã đi đến kết luận tương tự như Yukinari. Cô nhìn cậu, mắt mở to đằng sau cặp kính.

“Ừ đúng rồi. Chừng nào anh còn ở đây, thì điều đó sẽ không thành vấn đề, phải không nào?”

Dasa tỏ vẻ phiền muộn. “Nhưng, Yuki, cái đó…” Cô nàng dường như tư lự về điều gì đó cho trong chốc lát. Sau đó cô nàng nói, “Yuki …”

“Sao?”

“Anh… quyết định ở lại đây… là vì em, phải không?”

Cậu biết em ấy cảm thấy tội lỗi như thế nào, nên bèn cố ra vẻ ung dung khi nói, “Sao tự dưng lại? Ý anh là, ừ, đó là một phần của nó, nhưng thực sự, tôi chỉ hơi mệt thôi.”

“Nhưng Yuki, nếu anh… sử dụng sức mạnh của mình…”

“Àa, đừng lo lắng về điều đó. Anh sẽ đảm bảo mọi thứ đều okê.” Cậu đặt tay phải lên đầu và khuấy tóc em ấy.

“… Mm.” Cô nàng nhắm mắt vẻ sung sướng.

Trước đây, cô đã từng bị mù, và cô thích những giác quan khác hơn thị giác của mình, đặc biệt là thính giác và xúc giác. Nói cách khác, việc chạm và được chạm vào khiến cô nàng thoải mái hơn là một khuôn mặt tươi cười.

Berta nhìn hai người một hồi lâu, và cuối cùng đến gần Dasa và nói, “Um …” cô nói, cúi đầu nhẹ nhàng.

“Hử? Chuyện gì thế?”

“N-Ngài có thể… làm điều đó với em nữa, được không?”

“… Ờm.” Có vẻ là, cô ấy cũng muốn tóc mình bị khuấy. “Tôi không chắc…”

Yukinari bối rối, nhưng Dasa đã bám lấy cánh tay cậu—như thể nói rằng Đây là của ta! —và nói, “Tuyệt đối… không …!”

Những vị khách bất ngờ đã ghé thăm nhà Schillings ngày hôm đó.

Trong lúc ngài thị trưởng, Hans Schillings, đang nằm liệt giường, thường thì người con gái Fiona tiếp khách thay. Nhưng đây không phải là khách bình thường. Họ yêu cầu gặp đích thân Hans Schillings.

Người nhà Schillings không thể từ chối. Hans lộ diện trong phòng khách, Fiona đỡ một cánh tay và vị quản gia bên còn lại, để gặp những người cho gọi. Ông tự ngồi, vẫn còn mặc đồ ngủ, với một chiếc chăn bông đắp qua đầu gối.

“Thứ lỗi cho tôi không được chỉnh tề hơn để tiếp khách. Tôi biết từ thủ đô tới đây quả đúng là một hành trình dài.”

Fiona và vị quản gia đứng sau Hans một bước, lưng hướng vào tường, đối diện những vị khách. Thị trưởng lặng lẽ nói tiếp:

“Thế… tôi nợ danh dự cho điều gì đây?”

Fiona ngưỡng mộ ông chỉ vì có thể nói mà không hề run rẩy. Ông phải đối mặt với hai hiệp sĩ thân bọc giáp, kiếm bên hông. Dù hiện họ đã ở trong nhà, nhưng mấy vị đó chẳng hề có động thái bỏ mũ. Có vẻ hiểu biết của họ về phép tắc ít hơn so với mong muốn hăm dọa đối tượng cho gọi của họ.

Khuôn mặt của họ thấy được ở ngay dưới mắt, do đó, có thể đoán tuổi của họ. Một người đàn ông đang trong thời hoàng kim của đời mình, mồm đầy râu. Người còn lại có vẻ trẻ hơn nhiều.

Người đàn ông lớn tuổi bắt đầu nói: “Bằng lòng nhân từ vô giá của Đức Thánh Cha, chúng tôi tới để mang đến cho vùng quê thất học này những giáo lý cao quý của Giáo Hội Harris. Sùng bái dưới giáo phái của ‘loài quỷ’ vô luật pháp là cái chết đối với linh hồn, để rồi bị kéo xuống Địa Ngục. Chúng ta ở tại xứ này để khơi dậy các giáo lý của Giáo Hội, và nhờ đó mang lại cho mọi người sự cứu rỗi.”

Suy nghĩ một hồi lâu, Hans lẩm bẩm, “Hửm?” Đằng sau ông, Fiona và vị quản gia nhìn nhau. Không ai trong số họ hiểu mô tê gì về điều người đàn ông kia đang cố nói. Thông điệp của vị ấy dường như rất quanh co, có thể nói là phóng đại.

“Nói cách khác…” Giờ thì người trẻ hơn lên tiếng. Có lẽ hắn ta bận tâm đến việc Fiona và mấy người khác không hiểu ngay, hoặc có lẽ hắn ta vốn luôn có ý định bổ sung một cái gì đó để làm rõ ngay khi người bạn đồng hành của hắn ta vừa dứt lời. Giọng hắn ta nghe súc tích, gần như là giả tạo”…Chúng tôi ở đây để truyền bá giáo lý vinh quang của chúng tôi cho lũ ngốc các người, những người nhà quê dốt nát”.

Bộ ba cứ Friedland cùng hít vào một nhịp. Vậy ra những người này là những người truyền giáo. Nhưng mà, tại sao họ lại được vũ trang?

Có điều gì đó làm Fiona khó chịu hơn, một điều riêng tư. Cô nghĩ mình nhận ra giọng của chàng trai trẻ. Khi nhìn kỹ hơn những gì có thể ở miệng và cằm dưới chiếc mũ sắt, cô chắc chắn rằng mình đã từng thấy hắn ta trước đây rồi…

“Vậy được rồi, Lansdowne.”

“Vâng, thưa ngài. Mea culpa, thưa ngài.” Hắn ta khẽ cúi đầu trước sự khiển trách của vị hiệp sĩ đứng tuổi. Họ không nói với nhau gì nữa, nhưng riêng cái tên đó là đủ để gây sốc cho mặt Fiona.

“Lansdowne! Phải ngươi đó không?!”

“Ha! Cuối cùng cũng nhớ ra rồi à?” Hiệp sĩ mang tên Lansdowne dựng tấm che mặt ở mũ. Khuôn mặt nhìn chằm chằm vào cô là cái mà Fiona biết rõ quá chừng—một người bạn cùng lớp từ những ngày cô ở học viện thủ đô.

Arlen Lansdowne.

Là con trai của một nhà quý tộc điển hình, hắn ta không nổi ở học viện cho lắm. Mỗi lời nói và hành động của hắn đều ngập tràn sự ngạo mạn. Hắn ta là một kẻ không có khái niệm bình đẳng: khi gặp một người quen mới, điều đầu tiên hắn muốn biết là họ ở trên hay dưới mình. Nếu ở dưới, hắn sẽ chẳng ngần ngại đối xử với họ bằng thái độ khinh khi ra mặt, trong khi một người có địa vị xã hội cao hơn lại nhận được vô vàn những lời xu nịnh khúm núm. Hắn không phải là một kẻ khó hiểu, nhưng khốn cho kẻ bị hắn xét là ở dưới mình. Ấy là một phạm trù mà Fiona, đến từ một vùng quê tầm thường lạc hậu, hiển nhiên bị liệt vào.

“Thì ra ngươi vẫn còn sống.” Cô không cố che giấu sự khinh bỉ của mình. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, Arlen như đã mô tả, rừng tham gia vào rất nhiều cuộc ẩu đả—một số bị đồn là đã kết thúc trong đổ máu.

“Đúng là một cách hay để chào bạn cùng lớp. Thật tốt khi biết rằng cô vẫn chưa bỏ cái thói hỗn xược.”

“Tôi chẳng muốn nghe điều đó từ ngài đâu, thưa Quý Ngài Tôi-là-một-trong-những-người-được-chọn”.

Arlen chỉ cười khẩy. “Những người được chọn. Thật là một cách chọn từ hấp dẫn dành cho người thượng đẳng dìu dắt những kẻ hèn kém.”

Fiona nghĩ lại thời mình ở thủ đô. Cô nhớ rằng việc con cháu thuộc tầng lớp quý tộc gia nhập Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris từng khá phổ biến. Nó mang lại một uy tín nhất định; ở thủ đô, người ta cảm giác rằng một sự ràng buộc với Lệnh cho thấy một người sở hữu nhân cách toàn vẹn.

Thực ra, một lời mời đã được gửi tới Fiona. Cô đã từ chối, có ý định trở lại Friedland ngay sau khi tốt nghiệp để trợ giúp trọng trách của cha mình—nhưng Arlen, có vẻ là, lại vui sướng tột cùng khi nhảy vào hội. Điều đó, cô nghĩ, là phần lớn trong nhân cách của hắn. Giáo Hội Chân Chính, hiện giờ, là tâm điểm của quyền lực. Thi thoảng, các dòng dõi hoàng gia thậm chí còn được biết là đã đề ra chính sách theo mong muốn của giáo hội.

Và ưu tú của Lệnh là một nhóm mang tên “Đoàn viễn chinh khai hóa.” Fiona chỉ biết họ qua lời đồn— người ta nói họ đã đi đến những nơi xa xôi của miền đất, nơi mà mọi người vẫn còn giữ những tín ngưỡng cổ hủ, để lan truyền cái mới và giảng dạy cái phải: của Giáo Hội Chân Chính Harris. Vô vàn hiểm nguy của vùng biên giới hoang dã đồng nghĩa với việc không hề có những nhà truyền giáo bình thường, mà là những người mang vũ khí và đã thành thục các loại hình đánh trận—hiệp sĩ, một nhóm người thực thụ.

Nhưng những người này không chỉ được trang bị để chiến đấu với trộm cắp, hoặc thậm chí cả á thần hay ngoại thú, Fiona nghĩ.

Mà hơn thế, trông họ chẳng khác nào một đội quân chuẩn bị xâm lược.

Ngoài mặt, Giáo Hội Harris nhấn mạnh việc tự do lựa chọn đức tin, song lại có vẻ sung hơn cả sướng khi chĩa thanh gươm vào bất kỳ kẻ nào không tuân theo lời dạy của họ. Họ dẫn người ta vào tôn giáo mới của họ bằng đầu nhọn của vũ khí, rồi tuyên bố người ấy đã lựa chọn đức tin theo ý chí tự do của mình.

“Đã bao giờ nghe câu,”Nếu đi vào cánh đồng, hãy học các bài hát của nông dân’ chưa?” Fiona nhún vai, tỏ rõ sự bực dọc.

“Fiona!” Cha cô cố ngăn cô, nhưng cô vẫn tiếp tục.

“Tức là người ta nên tôn trọng những đức tin mà mọi người vốn có!”

“Ngài thấy không, thưa Tư lệnh Quân đoàn?” Arlen không trả lời trực tiếp, mà nói với người đàn ông lớn tuổi hơn, có vẻ là một chỉ huy trong Đoàn Viễn Cbinh. “Hình ảnh chân thực của một kẻ man rợ dốt nát. Cô ấy đã từng như vậy đấy, cả hồi ở học viện.”

“Man rợ?!”

“Nghe tôi này, Fiona Schillings,” Arlen nói, một nụ cười ngạo mạn toát ra từ khuôn mặt khi hắn nhìn cô lần nữa. “Trước hết, hiểu biết của cô sai lầm cả rồi—vô dụng và hời hợt! Đúng là cái cách nhìn nhận thiển cận nhà quê mà tôi đã mong đợi ở cô. Cô cả gan buộc tội chúng tôi bằng những lời nhảm nhí của mình, như thể cô biết mọi thứ về sự thật của thế giới, như thể tầm nhìn của cô còn là gì khác ngoài nông cạn hay sao. Cô làm cho chúng tôi, và chính mình, một điều cực kì xấu. Nhưng chúng tôi ở đây để đặt cái đúng vào chỗ cô sai trái. Hãy thể hiện lòng biết ơn một cách thích đáng đi.”

“Ngươi đang ám chỉ—”

“Tôi hiểu rằng ở thị trấn này cho đến tận bay giờ các người vẫn tiếp tục hành vi hiến tế người sống vô nhân đạo.”

Fiona không thể nói gì về điều này. Arlen nhìn thấy cơ hội của mình, bèn lấn tới:

“Tội nghiệp! Thử nghĩ một thảm kịch thương tâm như vậy lại tiếp diễn trong chính thời đại này đây! Đã đến lúc phải vứt bỏ những thứ như vậy đi rồi!”

“Quả thực là,” Fiona nói, nheo mắt, “tôi cũng không còn nghĩ nhiều về hệ thống hiến tế. Nhưng ta phát hiện ra mối tiềm tàng bạo lực trong lời nói của ngươi. Tại sao vậy?”

“Tại sao à? Có ngu mới hỏi tại sao!” Arlen ngước nhìn trần nhà và thở dài làm bộ. “Chắc cô biết mà! Chúng tôi là vũ khí được sử dụng thay mặt các người, để thanh trừng ‘loài quỷ dữ’ nhũng nhiễu vùng đất này và mang lại sự cứu rỗi! Chúng tôi là sự công bình—đúng, có thể nói bản thân chúng tôi chính là sự công bình! Và ấy chính là sức mạnh của sự công bình mà cô cảm nhận được—làm ơn, đừng có thô thiển đến mức gọi nó là ‘bạo lực’!”

“Loài quỷ dữ… Ý ngươi là các thổ thần?”

Người đàn ông lớn tuổi kịch liệt xen vào: “Thiên Chúa mà chúng tôi thờ phụng là vị thần duy nhất!” Có vẻ, việc sử dụng từ “thần” đã gây nhức nhối. Ông ta nói tiếp: “Những sinh vật khác có thể sở hữu quyền năng bắt chước Thiên Chúa. Nhưng chúng là ác linh, hay thậm chí là loài quỷ dữ. Chúng tôi sẽ đuổi chúng đi. Và không chỉ trong một thời gian, mà là mãi mãi.”

“Mãi mãi…?”

Ý ông ta là gì? Quả thực, Lệnh Truyền Giáo được cho là có sức mạnh lớn. Họ thậm chí có thể giết được thổ thần hoặc á thần. Nhưng chỉ quật ngã một vị thần thôi thì chẳng có gì chấm dứt cả. Như cô đã nói với Yukinari, á thần và ngoại thú sẽ tìm cách chiếm vùng lãnh thổ mới bỏ trống cho chính chúng.

“Các người, tất cả các người, sẽ không bao giờ nằm ngoài sự bảo vệ của chúng tôi nữa.” Arlen nói giọng phóng đại khoa trương, rõ ràng là đang nhạo báng họ. “Nó đã bắt đầu rồi. Hãy nhìn quảng trường thị trấn của các người đi.”

“Cái gì…?” Fiona, cha cô, và vị quản gia nhìn nhau, tự hỏi hắn ta có ý gì.

Lệnh Truyền giáo đã làm việc một cách nhanh chóng—và hoàn toàn xuất phát từ một phía. Các hiệp sĩ truyền giáo đã đi qua làng trên ngựa của họ, hô hào người dân tới quảng trường ở trung tâm thị trấn. Những người đi ra nông trại đã được gọi trở lại, cho đến khi hầu hết mọi cư dân của Friedland đều tụ tập trước Lệnh.

“Tốt! Người tiếp theo sẽ được ban Thánh Dấu! Tiến lên trước đi!”

Các hiệp sĩ đã sắp mọi người thành hàng trước ba trạm ban phát Thánh Dấu, và hiện đang cho mọi người con dấu đức tin vào Giáo Hội Chân chính Harris này.

Về phần mình, người dân không hiểu lắm về những gì đang xảy ra với họ. Giáo Hội Chân Chính Harris nổi danh ngay cả ở những nơi xa xôi này, nhưng giống như thủ đô hay quốc vương, đó là một thuật ngữ ít liên quan đến cuộc sống của người Friedland bình thường. Thực chất, người ta hiểu còn chưa đến phân nửa những gì người của Lệnh Truyền Giáo đang nói với họ, quá nhiều là những lời lẽ chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống nông thôn. Song vì các hiệp sĩ tuyên bố rằng họ đã hành động dưới sự chấp thuận đầy đủ của Thị trưởng Hans Schillings, người dân bèn quyết định mình làm theo cũng chả hề gì.

Hơn nữa, đối với người Friedland, “tôn giáo” không phải là cái mà người ta thực hiện dựa trên một sự lựa chọn có chủ ý. Họ theo giáo phái địa phương từ lúc họ có khả năng theo đuổi bất cứ điều gì—thực sự, nó thâm căn cố đế tới nỗi một cái tên còn chẳng có—và họ sẽ làm như vậy cho đến khi chết. Nó liên quan mật thiết đến cuộc sống hàng ngày của họ, một thứ sâu sắc hơn cả “cảm thức thông thường””—chứ không phải “đức tin” mà họ chủ tâm tin tưởng.

Sự thờ cúng của Friedland cũng không phải là tỏ lòng tôn trọng hay thậm chí là tình yêu đối với thần thánh. Nó được thúc đẩy bởi sự sợ hãi đơn thuần đối với các sinh vật sở hữu quyền hạn vượt quá con người; đó là một cách để tránh những bất hạnh và tai ương trong cuộc sống này. Sự sợ hãi các vị thần là bản năng, nhưng điều này không nhất thiết tạo nên sự tôn kính hay tình cảm—có chăng, có thể nói chính nỗi sợ đơn thuần, theo mọi nghĩa, là điều đã thúc đẩy giảo phái bản địa ngay từ đầu.

Bởi vậy, “tôn giáo” là một trong những từ mà mọi người không hiểu. Họ thậm chí còn không hiểu rằng mình đang bị cải đạo. Mà thay vào đó, đa phần họ chỉ đơn giản xếp hàng vì được bảo là sẽ được cho cái gì đó—con “Thánh Dấu”, các hiệp sĩ gọi thế—và họ coi bất kỳ ai tặng quà cho họ là đáng ca tụng.

“Chúng tôi sẽ ban Dấu. Hãy đưa cổ ra.” Một nhà truyền giáo cầm chiếc vòng kim loại. Một hình chữ thập nhỏ tỏa ra dưới đáy. Đây là “Thánh Dấu” thật, nhưng dân làng lại có vẻ đặt cả cái thiết bị mang tên Dấu vào vòng nghi vấn. Một người dân thị trấn, hoàn toàn mù tịt, cúi đầu, và rồi nhà truyền giáo đặt vòng quanh cổ người ấy, rồi đập nó bằng dụng cụ kim loại nhỏ với một đầu tõe.

Riiiiing. Âm thanh vọng trong không khí một khắc dài trước khi tan biến.

“Hắc…?” Người dân làng phát ra tiếng kì lạ khi trải qua điều chưa từng trải bao giờ. Chiếc vòng kim loại bắt đầu co lại. Nó co lại cho đến khi vừa vặn trên cổ như một sợi dây chuyền, dừng lại trước khi nhỏ đến mức gây nghẽn thở hoặc tắc mạch. Dải kim loại đã dày lên một chút khi nó co lại, nhưng dân làng chắc hẳn không chú ý đến chi tiết nhỏ nhặt ấy. Mà thay vào đó, người ấy, cũng giống hầu hết những người khác, thơ thẩn đi ra bối rối sờ “Thánh Dấu”, trong khi đằng sau vang lên một giọng nói, Tiếp!

Bất giác, có một tiếng hét đau đớn: “Cái gì thế này?!”

Dân làng ngước nhìn thị trưởng đương quyền Fiona, đứng đó cùng với có vẻ là hai hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo. Có lẽ cô ấy đã chạy ra khỏi dinh thự và đang thở dốc. Một hiệp sĩ lên tiếng:

“Một món quà, từ chúng tôi. Thánh Dấu. Mọi tín đồ đều đeo nó.”

“Cái Thánh Dấu thì tôi quen! Nhưng các người đang xích cổ họ như động vật kìa!” Fiona chỉ mấy cái đai kim loại.

Điều này gây ra một tràng rì rầm khắp đám đông. Chẳng phải Lệnh đã nói họ hợp tác với thị trưởng sao? Vậy tại sao hiện Fiona lại có vẻ kinh ngạc? Tại sao cô ấy có vẻ như đang tranh cãi với họ? Và những cái đai kim loại đó. Giờ Fiona đã nói vậy, quả thực trông chúng như mấy cái thòng lọng thắt cổ vật nuôi…

“Sao ngươi dám! Quá sức hỗn xược. Chiếc đai đảm bảo rằng Thánh Dấu sẽ không bao giờ xa tín đồ. Có thể nói, đó là một phước lành. Đừng tự gây rắc rối cho mình. ”

“Nhưng—”

“Quái gì thế này?!” một người dân làng kêu lên. “Nó không tuột ra!”

Người ấy hẳn đã cố gỡ chiếc đai khi thấy Fiona chỉ trích hành động của Lệnh Truyền Giáo. Nhưng con Dấu vẫn thít chặt; dù có cào cấu nó, dân làng thậm chí còn chẳng thể nới lỏng cái đai, cứ đứng một chỗ mà gỡ chúng.

Tiếng kêu đầu tiên đã làm tạo thành một phản ứng dây chuyền. Phát hiện rằng mấy cái đai kim loại không rời ra, mọi người bắt đầu xúm lại chỗ đám hiệp sĩ, khuôn mặt sa sầm đầy tức tối.

“Các người muốn tôi làm việc kiểu gì với cái thứ này trên cổ hả?”

“Phải đấy! Gỡ nó ra, ngay lập tức! ”

“Tôi không đeo cái này đâu!”

Đám dân làng bất bình dường như chốc chốc lại đông thêm. Hiển nhiên là, có nhiều người Friedland hơn các nhà truyền giáo. Họ bao vây các hiệp sĩ và bắt đầu hô khẩu hiệu, Gỡ nó ra! Gỡ nó ra!

Một hiệp sĩ lên tiếng. “Lũ ngu xuẩn! Các ngươi ngu hết chỗ nói.”

Và rồi, trong khoảnh khắc kế tiếp, một tiếng thét dữ dội vang lên. Rồi một tiếng nữa, và một tiếng nữa—tất cả cư dân thị trấn cùng một lúc.

“Nó nónggggg!”

“Yaaaarrrgh!”

Mọi dân làng Friedland đều la hét: cả đàn ông lẫn đàn bà, từ bà cụ quá già để đi mà không cần chống gậy tới đứa trẻ còn chưa thể nói thành câu. Vài người đã ngã ra đất, quằn quại.

“Cái gì thế này?! Chuyện gì đang xảy ra?! “Fiona kinh hoàng hỏi.

“Những chiếc đai đó quả là điều tuyệt diệu,” một hiệp sĩ trẻ tuổi đứng cạnh cô cười. “Chúng là một sáng chế nhỏ của chúng tôi cho biết vị trí chung của mỗi tín đồ, và sẵn sàng ban sự trừng phạt từ Đức Chuấ Trời đến bất kỳ kẻ nào có thể nghĩ đến việc quay lưng lại với đức tin.”

“Sự trừng phạt từ Đức Chúa Trời? Ý ngươi là sự trừng phạt từ các ngươi hả!” Cô chỉ vào cái hộp kế bên một trạm phát Thánh Dấu. Cô đã thấy một gã hiệp sĩ làm gì đó với nó ngay trước khi cư dân thị trấn bắt đầu la hét.

“Đó là từ Thiên Chúa,” hiệp sĩ trẻ lập lại. “Thật vậy. Sự kiêu ngạo của tội lỗi trở thành ngọn lửa dội ngược lại kẻ tội đồ, thiêu đốt thể xác trần tục của hắn.”

Ngón tay của những người cố tháo chiếc vòng đỏ tấy và sưng lên, cho thấy rằng các thiết bị thực sự đủ nóng để đốt. Dân làng không biết làm thế nào, nhưng đó là tra tấn; nhiêu đó, họ hiểu được.

“Sao các ngươi có thể làm điều này?!” Fiona nói. “Hồi ở thủ đô, tôi chưa từng biết Giáo Hội Chân Chính Harris lại làm điều khủng khiếp như thế—”

“Đây không phải là thủ đô,” hiệp sĩ trẻ nói đều đều. “Tại biên giới, chúng tôi đối xử với lũ người các ngươi như những kẻ mọi rợ.”

“Vậy các ngươi nghĩ có thể chỉ cần dạo quanh đây và—”

“Thứ nữa,” hiệp sĩ tiếp tục, nói với Fiona, “đã có sự thay đổi trong ban lãnh đạo. Dominus Doctrinae chỉ huy mới của chúng tôi là một người hà khắc. Đặc biệt là đối với lũ dị giáo.”

Yukinari nhìn tấm bản đồ và lẩm bẩm, tay khoanh lại. Nó đã được hoàn thành cho tới thời điểm hiện tại.

“Giờ thì, về câu hỏi cho những điều chúng ta làm từ bây giờ…”

Cậu đã làm bản đồ hoàn toàn dựa vào những gì Berta nói với cậu, chứ không phải vào bất cứ điều gì tương tự như kết quả của một cuộc khảo sát chuẩn mực. Thành thật mà nói, phần lớn biểu đồ chỉ là sự phỏng đoán. Trông nó giống như kiểu “Bản Đồ Hàng Xóm Láng Giềng” của một đứa trẻ. Cơ hội đó là dù nó sai sót ở nhiều hơn chỉ một vài nơi, nhưng là đủ để họ bắt đầu suy nghĩ về việc làm thế nào để cải thiện tình hình canh tác của Friedland.

“Để bắt đầu, anh nghĩ chúng ta nên làm ở đây…”

“Chúa tể Yukinari …?” Bên cạnh cậu, Berta nhìn chiếc bản đồ vẻ khó hiểu. Những chữ cái và ký hiệu khác nhau mà cậu đã viết trên đó dường như không có ý nghĩa gì với cô – nhưng sau đó, vì cô có vẻ không biết chữ, điều đó không có gì ngạc nhiên cả. Dasa ngồi cạnh Yukinari, ôm lấy cánh tay cậu không vì lý do gì hết.

Berta di ngón tay dọc theo một đường cụ thể trên bản đồ. “Đây là gì?”

“Một kênh tưới tiêu. Và đây là một hồ chứa. Tôi đang cố gắng để quyết định nơi cửa cống hoạt động tốt nhất. Mặc dù chúng ta không thể thực sự chắc chắn cho đến khi tận mắt nhìn thấy nơi ấy. ”

“Kênh tưới tiêu …?”

“Thì ờm, nói theo thuật ngữ rộng,” Yukinari nói, như thể một phần là để nhắc nhở chính mình. “Thì hầu hết mùa vụ-cây trồng và tương tự-sẽ phát triển ngay cả khi không có đất. Có lẽ không phải cây họ đậu, nhưng rau lá thì có, phần lớn là vậy. ”

Berta có vẻ bối rối.

“Cây trồng phát triển bằng cách rải rễ trong đất, cố định vị trí để có thể tăng trưởng về kích thước. Chúng cũng lấy nước và chất dinh dưỡng từ mặt đất. Đó là lý do tại sao phải cần một diện tích đất nhất định để bất kỳ loài cây nào trưởng thành. ”

Trong khi nói, Yukinari đã cố nghĩ về “thế giới trước của mình”, nơi mà em gái cậu đã nuôi trồng thuỷ sản như là một sở thích. Luôn luôn gắn kết với sở thích của mình, cô bé đã trồng tất cả mọi thứ từ cà chua anh đào cho tới rau bina và húng quế trên hiên nhà mình. Nuôi trồng thuỷ sản, không sử dụng đất, giảm thiểu số lượng bọ gây hại và thu hoạch một vụ tương đối lớn trên một đơn vị diện tích bề mặt. Hay dù sao đi nữa, đó là cách cô bé đã giải thích cho cậu.

“Về cơ bản, nếu ta có thể giữ cho cây trồng ở một nơi và đảm bảo rằng chúng có nhiều nước và phân bón, thì chẳng cần tới đất. Ta có thể trồng gấp đôi số vụ trong cùng một không gian. ”

Berta im lặng.

“Ý tôi là, tôi biết nhảy ngay vào nuôi trồng thủy sản có lẽ là không khả thi. Nhưng dù vậy. Tất cả những gì tôi thực sự muốn nói, miễn là chúng ta có nguồn nước và chất dinh dưỡng ổn định, ngay cả những cánh đồng mà mấy người có bây giờ cũng sẽ có năng suất cao hơn. ”

“Em… em hiểu rồi…” Berta nói, vẻ choáng ngợp. Yukinari cho rằng tất cả những điều này có lẽ có một chút ý nghĩa với cô, ngay cả khi cậu tiếp tục nói.

“Tạm gác lại vụ phân bón. Chúng ta có sông, có nghĩa là chúng ta có thể lấy nước. Chúng ta chỉ cần tìm một nơi tốt, thuận lợi để đào một kênh tưới tiêu. ”

Berta im lặng một lúc; cô nhìn chằm chằm vào bản đồ và chớp mắt vài lần. Rồi cô nói, “Và thế là Friedland sẽ có nhiều cây trồng?”

“Không hứa hẹn gì đâu. Nhưng vì tôi không phải là thần, tôi nghĩ mình sẽ bắt đầu với những gì bản thân có thể làm.” Cậu nhún vai, nở một nụ cười đau đớn.

“Nhờ đâu mà ngài nảy ra được ý tưởng này, thưa đức chúa tể?”

“Nhờ đâu á? Ý tôi là … ” Trong tâm trí của Yukinari vốn dĩ thủy lợi không thể tách rời khỏi đất nông nghiệp. Đó là điều hiển nhiên. Nhưng có lẽ đó sẽ là một bước nhảy vọt trong trí tưởng tượng của những người Friedland, những người cho rằng điều hiển nhiên là phải dựa vào khả năng tác động đến môi trường của thổ thần.

“Đó không phải là ý kiến của tôi,” cuối cùng cậu nói.

“Mà là một người hiếm hoi … người sẽ nghĩ về điều đó,” Dasa nói.

“Dasa nói đúng. Đừng lo,” Yukinari nói, vỗ đầu Berta.

“… Yuki.”

“Ồ, phải rồi, xin lỗi.” Trước ánh nhìn phật lòng từ Dasa, cậu đặt tay còn lại lên đầu và vuốt tóc cả hai cô gái. Dasa dường như cảm thấy rằng nếu Berta sắp được xoa đầu thì chính cô cũng xứng đáng với số cái xoa tương tự. Yukinari không thực sự tuân theo logic của cô nàng, nhưng nếu điều giữ cô nàng được vui vẻ, thì cậu không có vấn đề gì với việc cho đi tất cả những cái vỗ đầu mà cô nàng muốn.

Nhưng ngay cả khi cậu lướt tay qua mái tóc cô—

“Yuki…” Dasa nhíu mày. “Có người … đang đến.” Các giác quan của cô sắc bén; cô có lẽ đã nghe thấy tiếng bước chân tiến về phía thánh địa. Một giây sau, Yukinari cũng nghe thấy, và rồi có tiếng đập cửa.

“Yukinari! Mở cửa! Xin hãy cho tôi vào! ”

Yukinari biết giọng nói đó. “Fiona…?” Cậu đi đến cửa và kéo thanh mà họ dùng thay cho một cái khóa. Fiona ngã sầm qua cánh cửa vào căn nhà ở tạm của họ. “Tại sao cô lại—oa, cái gì ?!”

Cô ngay lập tức vòng tay quanh người Yukinari, bám lấy cậu.

“Yukinari! Yukinari, giúp chúng tôi!” Cô nghẹn ngào. Cậu đã có ấn tượng rõ ràng rằng phó thị trưởng là một người phụ nữ mạnh mẽ, vì vậy để thấy Fiona rơi vào trạng thái nức nở, tình huống đáng sợ này khiến cậu rùng mình.

“Sao vậy? Chuyện gì đã xảy ra?” Cậu nắm lấy vai cô và giữ cô ở khoảng cách một cánh tay, nhìn cô từ trên xuống dưới. Đúng như đã nghi ngờ từ lúc cô tóm lấy cậu, Fiona trông như một mớ hỗn độn. Làn da của cô lộ ra qua những giọt nước mắt trong bộ đồ—và không phải loại nước mắt mà người ta sẽ rơi sau khi chạy qua khu rừng trên đường đến thánh địa và vớ lấy quần áo của một người trên cành cây. Đây rõ ràng là kết quả của một hành động bạo lực.

Dasa và Berta tức tốc mang đến một cái chăn, choàng quanh vai của Fiona. Có vẻ nó có tác dụng chấn an—cô ngồi xuống tại chỗ và run rẩy nói: “Giáo Hội Chân Chính Harris — Lệnh truyền giáo — họ ở đây…!”

Yukinari và Dasa tròn mắt nhìn cô. Tuy nhiên, Berta lại nghiêng đầu như thể chẳng hiểu gì sất.

“Giáo hội ở đây?”

“Vâng. Và ngay lúc này họ đang “khai hóa” dân làng! Hồi sống ở thủ đô, tôi từng nghe nói rằng Giáo Hội đã gửi đi những người truyền giáo, nhưng ngay cả trong giấc mơ tôi cũng không ngờ—rằng họ sẽ tới tận đây…! ”

“—Yuki,” Dasa nói, ngắt quãng. “Có phải là … vì chúng ta không?”

“Anh không biết,” Yukinari nói, cau mày. “Anh không nghĩ chúng ta có bất kỳ kẻ truy đuổi nào, nhưng mà…”

Fiona, dù có hiểu điều hai người đang nói hay không, một lần nữa vồ lấy Yukinari.

“Lệnh truyền giáo — họ đi xung quanh sát hại các thổ thần và á thần! Nếu chúng biết về anh, thì tôi chắc chúng cũng sẽ giết cả anh luôn mất!”

Trong khi Lệnh là các nhà truyền giáo trên danh nghĩa, mục đích thực sự của họ là khơi mào chiến tranh chống lại các thổ thần. Họ được tổ chức thành quân đội có khả năng hạ gục thần thổ của khu vực, sau đó ở lại trong khu vực để tiêu diệt bất kỳ á thần hoặc sinh vật vô đạo nào xuất hiện. Theo một nghĩa nào đó, các nhóm được tổ chức bởi con người này là một hệ thống đóng vai trò như một sự thay thế cho các thổ thần. Và tất nhiên, không giống như các vị thần địa phương, họ không đòi hỏi vật tế còn sống. Điều đó làm cho họ ít nhất là tốt hơn một chút so với các thổ thần, và có lẽ đóng góp cho sự gia tăng quyền lực nhanh chóng của Giáo hội Harris.

Chưa hết …

“Chuyện gì đang xảy ra ở thị trấn?” Yukinari hỏi.

“Các Hiệp sĩ của Lệnh đang ban Thánh Dấu của Giáo hội Harris cho mọi người,” Fiona nói, giọng cô vẫn run rẩy. “Nó giống như một chiếc vòng cổ — như thể cho động vật vậy—!”

Cô bị gián đoạn bởi một giọng nói hống hách từ bên ngoài. “Tôi biết cô đang trong đó mà! Ra đây đi!”

Yukinari và mấy người còn lại chưa từng nghe giọng nói ấy, nhưng khá chắc chắn về danh tính của người nói.

“Họ … Họ đuổi theo tôi?”

“Cứ cho là vậy đi đi.” Bỏ lại Fiona thảng thốt cho Dasa và Berta, Yukinari nhặt Durandall lên.

Đối Fiona vấn đề thổ thần luôn là một cuộc khủng hoảng. Ít nhất, đó là những gì Arlen thừa nhận. Và đó là lý do tại sao, theo đề nghị của hắn ta, chỉ huy quân đoàn của hắn ta đã để Fiona đi.

“Có thể cô ta đã học ở thủ đô, nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là một kẻ man rợ tỉnh lẻ,” hắn nói, đầy vẻ nhạo báng trong khi nhìn quanh nơi được gọi là thánh địa. Nó chẳng có gì ngoài mấy cái cột đá. Arlen khó có thể tưởng tượng được nó đủ tiêu chuẩn cho một thuật ngữ hoành tráng như vậy, càng không thể ngờ nổi Fiona nghĩ cô ta đang làm gì ở đây. Cô ta đã chạy trốn vào một nơi rõ ràng là căn nhà kho được dựng một cách vội vã.

“Giờ thì…” Arlen hạ tấm che mặt mũ sắt và giơ tay phải lên. Đáp lại, các hiệp sĩ khác bắt đầu bao vây căn nhà tạm bợ. Chỉ huy quân đoàn đã cho Arlen quyền truy đuổi Fiona và xử lí cô ta sao cho phù hợp. Ở đây hắn ta là kẻ có quyền.

“Trông khó vẻ là một con quái vật của chúng sẽ ở trong đó. Cơ mà…”

Toán lính đã hoàn toàn bao vây căn nhà. Ngoài kiếm ra, các hiệp sĩ còn được trang bị cung lớn. Những chiếc cung bắn tên thép và được rút ra phải bằng cách sử dụng một cái tời — chúng quá lớn để được rút ra bằng tay. Do đó việc nạp lại tên sau khi bắn quả đúng là một thử thách.

Không có mũi tên nào, dù mạnh mẽ tới đâu hay được làm bằng vật liệu gì, có khả năng hạ gục một thổ thần chỉ với một hoặc hai phát. Nhưng mười hoặc hai mươi người với khả năng sẵn sàng và bắn liên tiếp từng mũi, không ngừng nghỉ, có thể áp đảo đối phương. Nếu ngay cả điều đó cũng không hạ được sinh vật, họ có thể phải dùng đến vũ khí mạnh nhất của họ. Nhưng những mũi tên sẽ là quá đủ để câu giờ cho thứ đó.

Ra đây! Hắn nói, rồi chờ một lát. Một lúc lâu sau, cánh cửa căn nhà mở ra và một thanh niên trẻ tuổi đơn độc xuất hiện.

“Hửm?” Arlen cau mày. Cậu ta rõ ràng là con người—hoặc ít nhất là, cậu ta không phải là một sinh vật không rõ ràng.

“Xướng danh đi, tên vô sản,” Arlen khạc nhổ, và chàng trai—với cái nheo mắt và gần như là sự không hài lòng trong giọng nói—trả lời:

“Ta là thổ thần ở đây.”

“Ngươi? Đùa đó phải không. ” Mẫy gã lính túm tụm cười cợt. Ai đã từng nghe về thổ thần con người nào? Tất cả họ đều cho rằng cậu ta là một đứa đầy tớ, một tên người ở dọn dẹp thánh địa hoặc kiểu vậy.

Nhưng rồi tiếng crắc.

Arlen quay người một lát, không chắc chuyện gì đã xảy ra. Hắn đã cảm thấy một chấn động mạnh, như thể chiếc khiên trong tay hắn vừa bị nện bởi một chiếc rìu chiến.

“C-Cái gì thế—?”

Có một lỗ hổng trong chiếc khiên của hắn. Một cái gì đó đã đục lỗ trong đó. Nhiêu đó, hắn hiểu ra nhanh chóng. Nhưng mà thế quái nào…? Chàng trai đang đứng cách xa hắn, và có vẻ cậu ta không cầm bất cứ cây cung nào. Nhưng mà — khoan đã. Cậu ta đang trỏ một thanh kiếm thô trông có vẻ kỳ lạ về hướng Arlen. Có lẽ cậu ta có một thiết bị phóng ra thứ gì đó từ thanh kiếm, cũng là thứ đã tạo ra cái lỗ trên lá chắn của Arlen. Nhưng một chiếc khiên là một chiếc khiên, cho dù, như cái này, nó tương đối mỏng và nhẹ. Thậm chí xuyên qua nó với một mũi tên còn khó—vả lại hắn chẳng thấy vật thể đã gây ra thiệt hại ở đâu hết. Có thể nó nhỏ bằng một viên sỏi, nhưng thế thì làm sao nó có thể gây ra được điều này?

“Ta nghe nói đám chó săn của Giáo hội đang lăm le lãnh thổ của ta.” Chàng trai mỉm cười, nhe ra hàm răng của mình. Đó là vẻ mặt hung tợn, cục súc — như thú dữ. “Vậy là, ta nghĩ các ngươi đang muốn đón nhận hình phạt trực tiếp từ một vị thần ha.”

“Sao, ngươi-!”

“Cho dù nó—không phải của các ngươi—!”

Thất kinh trước nụ cười của cậu chàng, Arlen hét lên với một chút hoảng sợ: “B-Bắn hắn ta! Khai hỏaaaa!” Các hiệp sĩ, có vẻ cũng lúng túng như Arlen trước tiếng ồn chói tai và đòn công kích không xác định xuất phát từ cậu chàng, liền tuân lệnh.

Song chàng trai chỉ đơn giản là cúi người trở lại vào nhà để né khỏi những mũi tên của họ. Liên tiếp tên găm vào bức tường ngoài của căn nhà. Và tức thì—

Crắc.

Âm thanh vang đến bốn lần liên tiếp. Đám cháy nhỏ lóe lên trong căn nhà gỗ, và gần như đồng thời, bốn hiệp sĩ khuỵu xuống đất. Họ la ó, nắm chặt vai hoặc chân của họ. Máu chảy ra từ khe hở trong áo giáp. Họ đã bị tấn công. Bất kể thứ gì có thể đục một cái lỗ trên chiếc khiên thì nó cũng có thể xuyên qua lớp giáp để xâm hại phần thịt mềm bên dưới.

“Đồ đáng nguyền rủa—!” Arlen thấy mình đang nhìn vào chàng trai và một hình dạng con người khác: một cô gái tóc bạc nhỏ nhắn. Cô ta cũng mang theo vài công cụ kỳ lạ— mà không, một vài vũ khí. Một hoặc hai trong số bốn đòn công kích hẳn phải đến từ nó.

Arlen nghiến răng và gầm lên giận dữ. Hiện hắn không biết chính xác kẻ thù đã tấn công hắn bằng cách nào, nhưng hắn biết chúng có thể tự bảo vệ mình khỏi những cuộc tấn công của hắn, còn những chiếc khiên và áo giáp đúng ra phải bảo vệ cơ thể hắn thì vô dụng. Và bất kỳ nỗ lực nào để né đòn cũng đều vô ích bởi vì không thể nhìn thấy nó bằng mắt thường. Dường như không hề có hy vọng chiến thắng.

Đến cả Arlen cũng thấy rằng không thể giữ quân thêm được nữa. Tình huống này dành cho một thứ duy nhất.

Hắn ra lệnh cho đám người truyền giáo: “Đánh thức tượng đài vị thánh bảo hộ!”

Có những điều chúng ta không thể quên, ngay cả khi chúng ta tuyệt vọng muốn quên chho được. Những kí ức sôi sục, không phải trong mắt chúng ta, mà trong khối óc, nơi chúng sẽ không bao giờ phai mờ. Chúng ta nhớ lại chúng bằng sự thôi thúc nhỏ nhặt; đôi khi, chúng trở thành con mồi cho những cơn ác mộng. Trải nghiệm của Yukinari đã mang lại hai khoảnh khắc không thể xóa nhòa như vậy: một là khi cậu và chị gái cậu gặp gỡ nhau những giây phút cuối cùng trong cuộc đời họ ở “thế giới trước.” Còn lại là ngày mà Jirina qua đời.

Chị ấy nói những lời cuối cùng của mình khi Yukinari đỡ chị dậy trong bể máu chính chị ấy.

“Tôi… xin lỗi, Yuki… Hãy— chăm sóc… Dasa…”

Và rồi hơi thở của cuộc đời rời bỏ. Không một lời Cứu tôi hay Tôi không muốn chết. Kết thúc cay đắng, toàn bộ mối lo âu của chị đã dành cho cậu và đứa em gái nhỏ. Yukinari cảm nhận được cậu và Dasa đã được yêu thương đến mức nào.

Jirina đã ở trong một tình trạng khủng khiếp. Khắp nơi là những vết thương lỗ chỗ từ đao kiếm. Nhiều khả năng, chị ấy đã bị một nhóm người bao vây và bị đâm liên tục. Yukinari ngạc nhiên rằng chị đã xoay xở để thoát được. Chị ấy đã sẵn lòng cử động một cơ thể không bao giờ có thể nhúc nhích được nữa—chỉ để nói với Yukinari và Dasa rằng hãy chạy đi, nói với họ rằng ở đây không còn an toàn nữa. Vì điều đó, chị đã đến giới hạn của bản thân mình.

Và rồi, khi Yukinari ngồi lặng ôm chặt cơ thể Jirina, chúng xuất hiện.

“Thứ phù thủy đáng nguyền rủa!”

Những gã đàn ông hiên ngang khoe ra cây thánh giá màu đỏ tươi: Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris.

Và mỗi người trong số chúng đều mang một thanh kiếm nhuốm máu Jirina.

Đám lính lệ mặc sức sỉ nhục chị ấy.

“Thứ dị giáo vô ơn cặn bã!”

“Dám thách thức bọn ta cơ à?!”

“Đưa cái xác đó đây, thằng nhóc c—”

Điều gì đã xảy ra sau đó, Yukinari không thể nhớ nổi. Điều tiếp theo cậu biết, là cậu và Dasa đang chôn cất Jirina. Họ không có quan tài, nhưng họ quấn chị gọn gàng trong một tấm vải, và đưa chị về với đất Mẹ.

Toàn bộ biến cố này đã chôn chặt một cảm giác đặc biệt trong Yukinari: hận thù đối với Giáo Hội Harris.

Cậu vốn đã có một cái nhìn khá mờ nhạt về tôn giáo. Trong “thế giới trước” của mình, mẹ cậu đã bị cuốn vào một trong những “tôn giáo mới”, các giáo phái nổi tiếng mọc lên như hoa cúc ở Nhật Bản hiện đại; bà đã bỏ lại gia đình vì cái đức tin mới mẻ này và không bao giờ nhìn lại. Nhưng với cái chết của Jirina, cậu coi thường tôn giáo ở mức độ sâu sắc nhất. Và ở cốt lõi cháy bỏng trong sự hận thù của cậu, sau đó và luôn luôn vậy, là Giáo Hội Harris.

Cậu muốn trả thù Giáo hội cho Jirina. Dasa nói rằng Yukinari, điên loạn vì giận dữ, đã tàn sát những kẻ trực tiếp giết hại Jirina cho đến tên cuối cùng. Nhưng chính Giáo hội mới là lý do khiến chúng giết chị với tội danh phù thủy, sau thời gian quá dài sử dụng kĩ năng của một nhà giả kim thuật. Nếu có thể, Yukinari hẳn đã sẵn lòng giết tất cả thành viên của Giáo Hội, chắc chắn là tất cả các hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo. Nhưng những lời cuối cùng của Jirina—chăm sóc Dasa— đã giữ cậu lại.

Để bảo vệ Dasa, cậu phải chạy trốn. Đó là lý do tại sao hai người họ dành cả ngày chạy trốn khỏi những kẻ truy đuổi từ Giáo hội. Giáo hội đã đưa ra những áp phích truy nã cho cả hai, vì vậy họ men theo bất cứ thị trấn nào có thể là nhà của những người đồng tình với Harris, không bao giờ ở lâu tại một nơi, luôn bỏ lại thủ đô—nhà của Giáo hội—sau lưng mình, đi và đi như thể đến một ngày chạm tới rìa của thế giới.

Nhưng bây giờ…

“Nếu lũ khốn các ngươi tự giác xuất hiện trước mặt ta, thì lại là một chuyện khác đấy.” Yukinari cười nhăn nhở, nhe răng. Lúc này cậu là kẻ truy đuổi, truy kích những kẻ truyền giáo thoái lui. Có vẻ chúng đang hướng đến Friedland. Tốt thôi. Cậu sẽ đi theo luôn, và sau đó sẽ tiêu diệt cả đám hiệp sĩ đang “khai hóa” mấy người ở đó luôn một thể.

Đột nhiên, cậu rùng mình. Thứ kỳ lạ gì đó đang dọc theo con đường chạy từ thị trấn đến thánh địa. Đó là một toa xe rất lớn. Gấp nhiều lần kích thước của bất kỳ phương tiện giao thông bình thường nào, bục hình chữ nhật của nó mang theo vật khổng lồ và được che phủ trong tấm vải liệm. Các hiệp sĩ truyền giáo hối hả theo đuôi nó, tất cả đều hét lên bằng tất cả hơi trong lá phổi.

“Mang vị thánh ra! Chuẩn bị vị thánh! ”

“—Yuki.” Dasa chạy lên bên cạnh cậu.

“Dasa! Lùi lại. Nguy hiểm đấy.”

“Nếu một mình anh… thì còn nguy hiểm hơn,” cô nói, nghiêng cái cò của Ớt Đỏ.

“Thật không thể tin n—Mà nè? Đừng để ý. Cứ ở sát vào nhé. ”

“… Mm.”

“Có dự đoán gì về thứ đó không, Dasa?”

Cô nàng ngập ngừng một lúc lâu trước khi trả lời: “Chịu.”

Trong khi nói, họ quan sát mấy người truyền giáo, những kẻ đã bắt đầu khởi động một số thiết bị gắn liền với toa xe. Đó là—

“Một cái đàn ócc-gan?”

Một âm thanh bất chợt vang lên — một giai điệu. Rõ ràng, thứ đó là một cây đại phong cầm, nhưng là cỡ nhỏ. Đại phong cầm (đàn ống) là một nhạc cụ thường được xây gắn trực tiếp vào một tòa nhà. Nhưng có vẻ như cái này đã được làm như là một phần của cỗ xe.

Và rồi, các hiệp sĩ bắt đầu cùng nhau ngâm nga.

“Hâu, hâu, hâu! Ôi tổ tiên đáng kính của chúng con! Ôi thánh nhân bảo vệ các giáo lý tôn kính, hãy hiện thân trong những mảnh thép, và xung mình ra trận! ”

“Ra trận!”

“Hâu, hâu, hâu, hâu!”

“Hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu liiiiiiiii!”

Các hiệp sĩ hòa âm, hai bàn tay đặt trước ngực, cho đến khi mắt đỏ ngầu.

Yukinari nhảy lên, tức khắc, nổi lên một cơn gió ào ạt. Tấm vải liệm, đủ lớn để phủ lấp một ngôi nhà nhỏ, bị nứt toạc trong cơn gió, rồi bắt đầu gợn sóng dữ dội. Điều này được đi kèm với tiếng la hét của đám người truyền giáo:

“Nhìn kìa! Thánh nhân xuất hiện để chiến đấu! ”

“Chiến đấu!”

Ngay sau đó, một hình thể khổng lồ rơi xuống giữa Yukinari và các hiệp sĩ. Một cú va chạm mạnh, đường đất ở thánh địa tơi tả.

“Giờ, chỉ là một giây phút chết tiệt ở đây—”

Ngay cả Yukinari cũng rất ngạc nhiên—thực sự, sửng sốt. Thứ đứng trước mặt cậu và Dasa, thứ văng ra khỏi cỗ xe khổng lồ, bay vài mét trước khi nó rơi xuống đất …

“Ai biết chúng có đồ chơi thế này cơ chứ?”

Yukinari có thể gọi nó là “một con robot khổng lồ.” Nó cao hơn năm mét—có lẽ không đến sáu, nhưng một con người đứng trước thân hình cao chót vót cảm thấy bị đe dọa là dễ hiểu. Nó rõ ràng là làm bằng thép, và trông rất nặng nề. Dù vậy, thứ đó đã nhảy. Nó tựa như một cỗ xe tăng vừa nhảy giữa không trung: phản ứng duy nhất chỉ có thể là tuyệt vọng.

Các hiệp sĩ đã cất tiếng hát—hoặc có lẽ là lời cầu nguyện—một lần nữa.

“Hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu!”

Khi các hiệp sĩ ca lên, cây đại phong cầm bắt đầu chơi to hơn nữa, và một phản ứng có thể thấy ở những chiếc gai—hàng tá, hàng trăm cái—bao phủ gã khổng lồ thép.

Không. Đó không phải là gai. Đầu mỗi chiếc được tách ra làm hai. Chúng là…

Yukinari nheo mắt: “Âm thoa …?”

Âm thoa. Một số lượng lớn, đủ mọi kích cỡ. Chúng rung động đồng điệu với tiếng đàn và những lời cầu nguyện, và cứ mỗi lần như vậy, con quái vật kim loại lại tạo ra một vài chuyển động nhỏ.

“Mấy cái dĩa… hẳn là cách… kiểm soát ‘dầu thánh,’” Dasa nói.

“Đoán tốt đấy,” Yukinari gật đầu. “Anh rút lại những gì vừa nói, Dasa. Em phải lùi lại. Trở về nhà đi.”

“Nhưng mà, Yuki …”

“Anh cần em trông nom Berta và cô công chúa nhỏ. Giữ họ an toàn — và trên hết, cả em nữa. Có vẻ là anh bận tay với thứ này rồi.” Nói đoạn, Yukinari đưa cho Dasa một hộp đạn Magnum .44 vừa lấy ra khỏi túi.

Một lúc lâu Dasa mới nói, “Hiểu rồi.” Rồi cô gật đầu, nhưng vẫn thủ sẵn Ớt Đỏ ngay cả trong lúc lùi lại. Nếu phải quay trở lại căn nhà gỗ, cô nàng sẽ yểm trợ Yukinari như vừa làm vậy. Lòng dũng cảm của cô đang cổ vũ cậu, nhưng giờ không phải là lúc dừng lại và đưa ra lời cảm ơn.

“Về cơ bản thì, có lẽ nó chỉ là một cỗ máy mà thôi,” Yukinari lẩm bẩm, nhìn gã khổng lồ rút thanh gươm ở thắt lưng. Việc đột nhiên phải đối mặt với thứ này đã khiến cậu mất tự tin đi hẳn, đó là sự thật. Nhưng cậu chỉ cần bình tĩnh lại và suy nghĩ. Đây không phải là phép lạ. Nó chẳng là gì cả. Chỉ là một con rối, với âm thanh thay vì dây, và âm thoa để làm cho nó nhảy múa. Đám người truyền giáo đang kiểm soát nó bằng cây đại phong cầm và những lời cầu nguyện của chúng.

Còn về cách nó di chuyển—câu trả lời có lẽ là “dầu thánh”. Thứ được bảo mật chặt chẽ nhất trong tất cả các bí mật của Giáo Hội, dầu thánh là một chất màu đỏ máu với những đặc tính bất thường, có khả năng lưu giữ nhiệt và năng lượng. Khi sự kích thích phù hợp được áp dụng—trong trường hợp này, có lẽ là sự dao động của âm thoa—nó có thể được làm nóng lên, hoặc biến đổi thể tích, giải phóng năng lượng đó. Nó giống như một chiếc pin không chứa điện, mà là nhiệt và thậm chí là “sự chuyển động”. Về cơ bản nó sẽ là cơ bắp của gã khổng lồ này.

“Các ngươi có được sức mạnh đó từ những nhà giả kim thuật mà các ngươi đã giết như những kẻ dị giáo. Và thậm chí không có chút xấu hổ nào khi sử dụng nó ư? Ta đoán là thật vui khi thấy các người thiết tha níu giữ cái đạo đức giả của mình như vậy đấy.”

“Dầu Thánh” có nguồn gốc từ giả kim thuật khi nó được áp dụng ở thế giới này. Giáo hội đã săn lùng các nhà giả kim thuật như những “kẻ dị giáo”, nhưng lại tự ý bắt về những người mà nó cho là hữu ích. Hiện họ đang bị giam giữ ở một nơi bí mật nào đó, buộc phải sản xuất các thiết bị thực hiện “phép lạ” của Giáo Hội trong khi gia đình và người thân của họ bị bắt làm con tin.

Jirina đã từng là một trong số đó.

Cha mẹ chị ấy cũng đã từng là tù nhân của Giáo hội, và chị đã sống cả cuộc đời mình—và rồi chết—mà không bao giờ nhìn thấy thế giới bên ngoài. Đó là lý do tại sao Yukinari sẽ không bao giờ tha thứ cho Giáo Hội. Jirina đã là “người mẹ”, người đã cho cậu một cuộc sống thứ hai, là “người chị” đã dìu dắt cậu khi cậu không biết đâu là phải đâu là trái—và chúng đã tước đoạt chị ấy khỏi cậu. Điều đó, cậu sẽ không dung thứ. Cứ để chúng mang ra thứ vũ khí với sức mạnh hủy diệt áp đảo—lời thề của cậu sẽ không dao động.

“Sự trừng phạt của Đức Chúa Trời!” Các hiệp sĩ gầm lên. “Giải phóng cơn thịnh nộ!”

Gã khổng lồ—được chạm khắc, như thể vị thánh bảo hộ của Giáo Hội Chân Chính Harris—vung thanh kiếm xuống Yukinari. Nó để lại một dư ảnh trong không khí, và kéo theo là vụ nổ của không khí nén. Sự cần thiết phải kiểm soát nó bằng âm thanh đồng nghĩa với việc có một khoảng trễ ngắn trước khi bức tượng chuyển động. Nhưng một khi đã triển, thì nó nhanh hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.

Bùùùùm …

Với một tiếng ầm ầm như thể phát ra từ chính mặt đất, thanh kiếm cày sâu xuống nền. Cái rãnh rộng vài mét và sâu hơn hai mươi cm. Trông thì có vẻ không giống, nhưng nó chứng tỏ một lực đáng kinh ngạc. Lưỡi kiếm trông có vẻ không bén, nhưng có lẽ là không cần thiết để chẻ đôi bất kì ai kẹt trong đường đi của nó.

“Vậy ra đây là thứ chúng dùng để giết các thổ thần…”

Bức tượng có vẻ chắc chắn đủ khả năng để đối đầu trực diện một vị thần. Và nếu đám dân làng ngu ngơ của những khu vực như thế này có thể thấy nó làm vậy, thì rất dễ dàng nó có thể được coi như phép lạ từ Chúa trời. Thật có ích biết mấy cho việc truyền giáo khi mà dân làng có thể được bảo rằng vị thánh bảo hộ đáng kính của Giáo Hội Chân Chính Harris đã trở thành hiện thân của họ là một người đàn ông thép bất khả chiến bại, để tiêu diệt những con “quỷ” dám cả gan mạo danh Chúa Trời.

Một trong những hiệp sĩ kêu lên: “Chết đi, quỷ dữ! Hãy chết như tất cả những con quỷ khác!”

Bức tượng lặp lại đòn tấn công của nó. Yukinari đã đúng: chuyển động duy nhất mà nó vung thanh kiếm của nó, rồi bước tới trước để lấy lại thế, tuy nhanh một cách ngạc nhiên, nhưng lại là hai giai đoạn hoàn toàn tách biệt. Chúng giống như hai tấm truyện tranh đặt cạnh nhau, một thứ gì đó còn thiếu trong khoảng không ở giữa. Nó gần giống như cách một số loài bò sát hay động vật lưỡng cư di chuyển; hoàn toàn lặng thinh và tức thời chuyển động, khiến cho chúng cực kỳ khó đọc.

Đong đưa thanh kiếm của nó, bức tượng tiến về phía Yukinari, tấm vải che phủ nó lúc này phần phật sau nó như một cái áo choàng.

Một thử thách được đưa ra để đáp ứng sinh vật: một phát súng, âm thanh của .44 Magnum.

Tiếng ồn mang theo một viên đạn—nhưng nó chỉ để lại một vết xước trên lớp giáp dày. Mạnh mẽ như viên đạn Magnum, song chúng vẫn là chỉ là đạn súng lục. Ngay cả với vòng xỏ lỗ kim loại xuyên giáp mà cậu đã sử dụng, nó chỉ đơn giản là thiếu năng lượng tuyệt đối cần thiết để phá hủy bức tượng. Yukinari đã sử dụng đòn bẩy nạp đạn của Durandall, khai hỏa 5 viên một lúc, nhưng chẳng làm được gì.

Vậy thì, cận chiến. Đến lúc xài kiếm rồi. Tuy nhiên bức tượng có lợi thế rõ rệt ở cả sức mạnh lẫn tầm đánh. Cho dù có thể chạm được vào nó, ai mà biết trên con rối thép này có bao nhiêu khớp nối hoặc các bộ phận khác có thể hay không thể bị phá hủy cơ chứ?

“Chết tiệt! Lẽ ra mình nên làm một khẩu súng trường chống tăng! ”

Chà, nếu một cuộc chiến nghiêm trang, chỉnh tề là điều bất khả thi—Yukinari đánh võng quanh bức tượng để loại nó ra khỏi đường đạn của mình, rồi nhắm vào tên hiệp sĩ đang điều khiển chiếc đàn gắn với cỗ xe khổng lồ. Nhưng ngay khi cậu vừa làm vậy thì bức tượng liền quay về phía cậu và một ngọn lửa khè ra từ bụng nó .

“Yaou! Nóng vậy, tiên sư! Nó có cả súng phun lửa cơ à?!” Vũ khí này có lẽ là để đối phó với những đối thủ tới quá gần với thanh kiếm của nó. Bởi nó không được kết nối với chuyển động thực của bức tượng, nên có thể khai hỏa bất cứ lúc nào. Trái với vẻ bề ngoài, một thiết kế hợp lý đáng kinh ngạc.

“Chà, đây không phải là rắc rối hay sao.” Yukinari không có đến cả một ý niệm mơ hồ về chiến lược.

Trong khi cau mày trước câu hỏi hóc búa này, cậu chợt nhận ra: một nhóm tầm mười người truyền giáo, đang cắt một vòng tròn rộng về phía con đường—quay về phía thánh địa. Đất dốc thoai thoải, nhưng một khi đã ra khỏi đường mòn, chúng sẽ không thể di chuyển rất nhanh được. Nhưng mà—

“Dasa!”

Không còn thắc mắc gì nữa. Chúng đã cho rằng Yukinari quá mạnh; chúng có ý định bắt Dasa, Berta và Fiona làm con tin. Tất nhiên, Dasa đã có Ớt Đỏ bên mình, nhưng em ấy sẽ không thể chống cự nổi một cuộc đột kích đồng thời từ sáu người trở lên. Súng lục ổ xoay không tự động có cấu trúc đơn giản và sở hữu sức mạnh khủng khiếp—nhưng việc nạp và nhả đạn trong sức nóng của trận chiến là một đòi hỏi khó. Đó là lý do tại sao các nhân vật ở miền Tây luôn mang theo hai khẩu súng.

“Mẹ kiếp nó chứ…” Yukinari thấy mình cuống cuồng đuổi theo đám người truyền giáo.

Giây kế tiếp, tượng thánh bảo hộ vung thanh kiếm xuống cậu bằng tất cả sức bình sinh của nó.

Fiona, Berta, và Dasa có thể thấy đám người truyền giáo đang đến. Họ nghĩ đến việc cố giữ cửa và cố thủ trong căn nhà ở tạm, nhưng nơi đó đã được xây dựng vội vàng và không phải thứ có thể được gọi là rất chắc chắn. Tầm mười người đàn ông trưởng thành hợp sức có thể dễ dàng phá vỡ cửa.

“…Lùi lại,” Dasa nói. Cô đặt một chiếc ghế trước cửa và quỳ xuống trước nó, trong tay là vũ khí đen kỳ lạ. Cô giơ ra hai cái que gắn vào mặt dưới, sử dụng chúng như chân đế để đặt vũ khí lên ghế. Rồi, cô nhìn qua một ống trụ cố định trên đỉnh.

Lặng lẽ, Fiona dẫn Berta đến gần để họ ở ngay sau Dasa. Fiona không biết vũ khí của Dasa hoạt động như thế nào, nhưng Dasa sẽ trỏ nó vào ai đó, sẽ có tiếng gầm, và rồi người đó sẽ chết. Điều này có nghĩa rằng, mặc dù hoàn toàn khác về kích thước và hình dạng, nhưng bằng cách nào đó, nó có họ với cung tên và mũi tên. Có đồng minh trước mặt trong khi đang cố dùng vũ khí như vậy chỉ tổ gây phiền phức.

“Tư duy… tốt đấy.” Dasa nghe có vẻ hài lòng. Rõ ràng, Fiona đã có ý tưởng đúng đắn. Dasa hướng vũ khí của mình tới đám hiệp sĩ đang xộc tới.

Và rồi tiếng gầm đó. Vào thời điểm kề cận nhất, nó lấn át tất cả các âm thanh khác. Fiona trông thấy một tên trong đám người truyền giáo lao về phía trước và ngã nhào. Gã gào thét, ôm lấy đùi mình. Đó chắc hẳn là nơi bị thương. Lẽ ra đùi gã phải được bọc thép. Không nặng, ừ, nhưng là một tấm kim loại bảo vệ nó, đủ dày để đẩy lùi một mũi tên và cong để một thanh kiếm sẽ trượt khỏi. Dù vậy cô nàng này đã đả thương gã ta ở đó—và thật dễ dàng.

“Kh—Khẩn trương lên!” Mấy tên hiệp sĩ còn lại hét lên động viên nhau. Dasa đáp lại chúng bằng một tiếng gầm khác. Những lỗ hổng xuất hiện trên những chiếc khiên mà chúng đang giơ lên, và mặc cho áo giáp chúng ngã xuống đất ôm chặt vai và chân. Có vẻ không ai chết ngay tại chỗ, nhưng mỗi tên đều đang cố xoay sở vết thương của mình và hú hét. Dường như còn hơn cả nỗi đau: đó là nỗi khiếp sợ khi thấy mình trong sự nhân từ của một vũ khí mà chúng không thể thấy và không thể hiểu. Thứ mà Dasa đang sử dụng xé qua tấm khiên mà chúng đã quen dùng để chặn kiếm và thậm chí cả những mũi tên. Đối với những gã đàn ông này, nó hẳn phải là một cơn ác mộng.

“Thử … Thử cỡ này xem, thứ dị giáo cặn bã!” Một gã đàn ông còn đứng được nhặt tấm khiên rớt xuống của người đồng đội, chồng nó lên người mình, và nấp sau hai tấm khiên cùng lúc khi gã tiếp cận.

Dasa cố đáp trả, nhưng—

“Ha — Ha ha! Có tác dụng!” Tên hiệp sĩ reo lên. “Ta an toàn!” Có vẻ ngay cả những đòn tấn công của Dasa cũng không thể xuyên qua ba lớp thép—khiên, và khiên, và áo giáp. Các hiệp sĩ khác nhanh chóng tiếp thu; chúng cũng bắt đầu lấy lá chắn từ các đồng đội bị thương và sử dụng chúng theo cặp.

Fiona không nói gì, vì chẳng có gì để nói. Từ chỗ của mình, cô ấy tất nhiên không thể thấy mặt Dasa, nhưng phải tưởng tượng ra hình ảnh người con gái rung động khi phát hiện vũ khí của mình bị vô hiệu. Và tất cả họ đều biết rằng nếu đám người truyền giáo đến đủ gần để sử dụng kiếm của chúng—nếu chúng ở trong tầm với—thì hy vọng chiến thắng cuối cùng của Dasa sẽ tan biến.

Vũ khí gầm lên hai lần nữa. Gã hiện đang dẫn đầu đám người truyền giáo ngạc nhiên khựng lại, nhưng rồi tiếp tục tiến bước. Rõ ràng, ngay cả hai phát liên tiếp cũng không đủ để phá vỡ lớp phòng thủ của kẻ thù. Các hiệp sĩ đã chậm lại một chút, có lẽ là do trọng lượng gia tăng khi mang hai chiếc khiên. Nhưng rồi…

“… Hết đạn,” Dasa lẩm bẩm. Và đám người truyền giáo ở trên họ, đã ở đó trước mặt họ.

Một gã vung kiếm lên. “Đồ khốn—” Nhưng chẳng bao lâu từ lúc mở miệng cho đến khi gã nhoài người về phía trước.

“Dasa!”

Các hiệp sĩ khác hướng về tiếng hét. Yukinari đang băng băng theo con đường, với Durandall trong tay. Tên truyền giáo vừa ngã chắc hẳn đã bị vũ khí của Yukinari đánh từ phía sau. Các hiệp sĩ đã quá tập trung vào việc tự vệ khỏi Dasa đến mức không thể tự bảo vệ mình hoặc thậm chí chú ý đến những gì đằng sau chúng.

Dù vậy, ngay lúc này, Berta điếng người kêu lên. Yukinari không phải là thứ duy nhất đi trên con đường. Một cái gì đó theo sau cậu, chầm chậm hiện hình như thể trồi lên từ mặt nước: một hình dạng con người cao chót vót.

“Hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu, hâu!”

Thứ ấy hiên ngang đứng, hộ tống theo là giai điệu của cây đại phong cầm và bài thánh ca của các hiệp sĩ đằng sau nó. Rồi nó lia một đòn quét ngang mạnh mẽ về phía Yukinari bằng thanh kiếm trong tay phải. Yukinari, giống như đám người truyền giáo, đã không còn để ý những gì đằng sau mình. Cậu hoàn toàn tập trung vào Dasa. Cho nên cậu không có cơ hội để né đòn; nó bắt gặp cậu một cách vừa vặn.

Yukinari thở hổn hển trong khi lưỡi kiếm khổng lồ—về cơ bản là một tấm sắt, thực sự—va phải cậu. Nó không xẻ cậu ra làm hai, nên hẳn là không sắc cho lắm, nhưng nó đã đưa cậu té nhào qua không trung như một chiếc lá rụng từ cây xuống. Và nếu thứ vũ khí có đủ sức mạnh để khiến con người bay, thì chắc hẳn nó đã nghiền nát thịt và xương khi nó va chạm. Trong trường hợp xấu nhất, nó thậm chí có thể đã làm gãy lưng Yukinari hoặc phá vỡ các cơ quan nội tạng của cậu, giết chết cậu ngay lập tức.

“Yukiiiii!”

Tiếng hét của Dasa vang vọng khắp thánh địa.

Va chạm trong khoảnh khắc. Thứ nặng nề, đồ sộ ấy đã tách bỏ ý thức của Yukinari về thế giới bên ngoài. Bóng tối bao trùm lấy cậu; mọi thứ đều nghe có vẻ xa xôi. Người cậu tê hết cả, và cậu không thể nếm hay ngửi được gì nữa. Bị tước đoạt bởi các giác quan mà lẽ ra phải kết nối cậu với những gì xung quanh, cậu cảm thấy mình như đang rơi xuống đáy của bóng tối sâu thẳm.

Tệ rồi đây. Não cậu không hoạt động. Cậu khó có thể nghĩ. Chỉ có một tòa nhà, nỗi hoảng sợ theo bản năng dấy lên trong cậu. Và với nó—

“Yuki…”

Chị gái cậu, Hatsune, đang vươn tay về phía cậu qua ngọn lửa.

“Tôi … xin lỗi, Yuki… Hãy—chăm sóc… Dasa…”

Jirina, nhuốm máu, nhưng sau cuối đã mỉm cười.

Thế giới trước của cậu, và thế giới này. Hai lần, Yukinari đã mất những người thân yêu với cậu. Lẽ ra cậu đã có thể cứu họ. Đã có thể đã giúp họ. Đã có thể làm điều gì đó. Ý nghĩ ấy đau đớn đến mức gần như khiến cậu phát điên.

“Chà, chết tiệt.”

Đó là điều khiến cậu lầm bầm trong bóng tối.

“Tôi biết tôi không được cắt cử để làm một vị thần.”

Yukinari có một sức mạnh. Nhưng cậu do dự sử dụng nó, bởi vì rồi mọi người sẽ biết cậu thực sự là gì, và sợ cậu. Sử dụng sức mạnh đồng nghĩa với việc mạo hiểm nhận được cái nhìn, cái nhìn kinh khiếp đối với một thứ không phải con người. Bởi sức mạnh của cậu vượt xa mọi người thường.

Cho đến lúc này, Yukinari cứ nhất định phải là con người. Nhưng nếu cái giá của việc làm người là đánh mất Dasa, thì cậu không sẵn lòng trả nó. Cậu đã hứa với Jirina. Nhưng còn hơn cả vậy.

“Dasa …”

Cô gái đã không ngần ngại ở bên cậu, dù biết cậu là gì. Cô gái có vẻ vô cảm và thản nhiên, nhưng chỉ cần một cái vỗ đầu để mang đến niềm vui cho cô nàng.

Cậu sẽ không để mất ai nữa. Cậu sẽ không để mất cô.

Cứ để họ khiếp sợ cậu như một con quái vật. Cứ để họ lăng mạ cậu như loài cầm thú. Ai lại đi quan tâm những kẻ vô danh nghĩ và cảm nhận thế nào cơ chứ? Cậu phải sử dụng sức mạnh của mình mà không do dự, không nghi ngờ, không hối hận—phải sử dụng nó để thỏa đáng những ham muốn riêng của mình. Và đây chẳng phải là địa phận của Thượng Đế Toàn Năng hay sao?

Và như vậy—

“Yuki!”

Giọng của Dasa đang gọi cậu.

Cậu phải đi.

Cậu sẽ không để mất ai nữa, không phải lần này.

Cậu bám lấy giọng nói của Dasa như một sợi dây cứu sinh, sử dụng nó để bám víu lấy nhận thức của mình. Cậu thấy bản thân nằm dài bên con đường dẫn đến thánh địa. Khi cậu mở mắt và ngước nhìn, cậu thấy bức tượng của vị thánh bảo hộ với thanh kiếm vung lên, sẵn sàng tung đòn kết liễu.

“Đối mặt với cái kết của mi đi, quỷ dữ!”

Lời lẽ vang lên như án tử; cây đại phong cầm ngân cao điên loạn. Lưỡi kiếm khổng lồ rơi về phía Yukinari cùng tiếng gầm thét của không khí vỡ vụn.

Nhưng theo sau là tiếng nói đầy bối rối.

Yukinari cười ngạo, nhe răng.

“Ai nói vậy?” Cậu hỏi. “Và ngươi đang nói với tên quái nào thế?”

Các hiệp sĩ truyền giáo đứng hình tại chỗ. Và không lấy làm lạ: chúng chẳng biết tí gì về điều đã xảy ra. Điều đã xảy ra trong chốc lát; có lẽ chỉ mỗi Dasa mới hiểu đó là gì. Còn với Berta và Fiona, thì ngay cả khi đã trông thấy, họ cũng không thể hiểu nó, bởi lẽ nó không giống bất cứ điều gì họ từng chứng kiến trước đây.

Đầu tiên, có một tia sáng màu xanh trắng giữa lòng bàn tay giơ lên của Yukinari và thanh kiếm của bức tượng khi nó vung xuống tay cậu. Không một tia lửa hay máu, tia sáng—ánh sáng gần như phát lạnh—lan tỏa mạnh đến mức mọi người xung quanh đều đổ bóng vì nó.

Rồi thanh kiếm biến mất.

Hay chính xác hơn, là phần lớn của nó đã, không cảnh báo hay lý do cụ thể, tiêu tan. Hầu hết thanh kiếm, định tâm ở phần Yukinari đã chạm vào, không còn tồn tại nữa, chỉ để lại một mảnh nhỏ gần chuôi kiếm và một mẩu nhỏ khác ở đỉnh. Không có gì chống đỡ, cái đỉnh bay trong không trung, va vào một cái cây mọc gần những gì còn sót của thánh địa và khiến nó cong lại.

Và rồi, khi thanh kiếm biến mất, ánh sáng bao trùm toàn bộ cơ thể Yukinari. Cậu đã hòa vào ánh sáng, và liền đó, ánh sáng lại biến mất. Ở nơi của Yukinari là…

“…Một hiệp sĩ …?” Fiona lẩm bẩm, kinh ngạc.

Yukinari lộ ra là một hiệp sĩ bọc thép. Nhưng cậu trông hoàn toàn khác so với các hiệp sĩ của Lệnh truyền giáo. Áo giáp của cậu không mang những đồ trang sức đáng sợ, và chất liệu màu ngọc lam đậm bao phủ cơ thể cậu có vẻ được khâu trực tiếp lên tấm vải đen bên dưới. Ấn tượng cậu để lại rất giống một con người.

Nhưng cậu cũng sở hữu một thứ mà không con người nào có: cánh. Chúng mọc từ lưng cậu, rủ xuống như những nhành cây trĩu quả, những chiếc lông làm bằng thứ gì đó trong mờ, giống như thủy tinh. Chúng phát ra tiếng leng keng dễ chịu khi cọ xát với nhau. Âm thanh cảm tưởng như một làn gió mát mẻ, nhưng chắc hẳn lông vũ thực sự khá nóng, bởi lưng Yukinari bị che khuất bởi một làn khói nhiệt.

Một chiếc nón sắt che đầu hiếm thấy một vết nứt hay sẹo—nhưng có lẽ các hiệp sĩ truyền giáo nhận thấy đôi mắt đỏ rực lên từ tấm che mặt, đôi mắt của chàng trai mà chúng đang nhiệt tình cố giết cho bằng được.

Một tên hiệp sĩ run rẩy chỉ ngón tay vào thân hình màu xanh.

“Không thể— Không thể nào! Điều này là không thể! ”

“Cái gì?” Một gã đồng đội hỏi. “Ngươi đang nói v—”

“Đó là‘ thiên thần ’!” Hắn ta gần như hét lên.

Có một sự nghẹt thở bao trùm, và một cái nhìn nghiệt ngã lan tỏa giữa những tên hiệp sĩ.

“Tôi đã thấy hắn ta! Tôi đã thấy hắn ta ngày hôm đó một năm về trước—đó là ‘Thiên thần xanh’! Hắn đã giết vị trưởng lão của Lệnh truyền giáo, và Dominus Doctrinae! ”

“Cảm ơn vì đã giải thích cho mọi người.” Yukinari nhăn nhó sau chiếc mặt nạ. “Chết tiệt, đây là lý do tại sao ta không muốn làm điều này, đặc biệt là không phải trước mặt đám ô hợp của Giáo hội! Ta biết kiểu gì các ngươi cũng sẽ tạo ta sự kết nối mà.”

Hai cánh trên lưng Yukinari bắt đầu mở ra, một vòng ánh sáng màu xanh-trắng hình thành giữa chúng và bắt đầu quay vòng, nhanh dần đều. Sức mạnh của “thiên thần” trên thực tế có thể được sử dụng trong một cơ thể bình thường. Yukinari đã có thể sử dụng nó trong trận chiến với đám ngoại thú để dễ dàng tiêu diệt chúng, nhưng có một thành phần cơ thể thích hợp cho việc sử dụng sức mạnh tới công suất tối đa của nó. Việc làm hiệu quả nhất đó là định hình lại hình thái của riêng mình là “thiên thần” này, bao bọc bởi áo giáp, với đôi cánh như thủy tinh.

“Thiên thần xanh’ …!”

“Bluesteel Blasphemer…?!”

Đám hiệp sĩ đều đã mất hết tinh thần. Vụ thảm sát Yukinari đã gây ra—giết tất cả những tên hiệp sĩ sát hại Jirina, sau đó xộc vào tòa nhà nơi kẻ đứng đầu của Lệnh truyền giáo và Dominus Doctrinae lúc bấy giờ sinh sống—được biết đến bởi ít nhất một vài trong số đám người này, và có vẻ chúng lấy “Thiên thần xanh” và “Bluesteel Blasphemer” làm tên của một cơn ác mộng.

“G-Giết hắn!” Một tên hiệp sĩ ra lệnh bằng giọng tắc nghẹn. “Tiêu diệt hắn! L-Làm gì đi!”

Giai điệu của đại phong cầm tiếp tục, và bức tượng thánh bảo hộ ném sang một bên thanh kiếm hao hụt của nó để đến tay đôi với cậu. Nhưng Yukinari chỉ đơn giản là đón lấy cú đấm của nó bằng bao tay sắt cuộn lại của mình, một cú, trực diện—và cánh tay của bức tượng, từ bàn tay của mình để khuỷu, như thể gợn sóng, và rồi tan vỡ thành bụi trắng.

Phân hủy vật lý.

Sức mạnh của Yukinari, sức mạnh của Thiên Thần, là tự do thao túng trạng thái của bất cứ thứ gì cậu chạm vào. Đó, thực sự, là Giả kim thuật sống. Các nhà giả kim bị Giáo Hội bắt cóc và làm việc một cách tàn nhẫn—bao gồm cả Jirina—đã đấu tranh hàng thế kỷ để đạt được điều này, đỉnh cao nghệ thuật của họ.

Nếu Yukinari muốn, cậu có thể biến nước thành rượu vang hay đá thành bánh mì. Điều này liên quan đến việc tiêu thụ thông tin, vì vậy khi biến đổi nhiều hơn một lượng nguyên liệu vật lý nhất định, trước tiên cậu sẽ phải chạm vào thứ gì đó và biến nó thành cát bụi—tức là, cậu sẽ phải tiếp nhận các thông tin về hình thức của nó và lưu lại. Nhưng cũng giống như khi cậu biến thành “thiên thần”, Yukinari có thể tiêu thụ và lưu trữ thông tin cùng một lúc.

Dù bằng cách nào, tại thời điểm này, nó cũng gần như chẳng quan trọng.

“Tượng thánh bảo hộ…!”

Đám hiệp sĩ đang trong tình trạng náo động. Nó vốn là thứ bảo lãnh cho sự bất khả xâm phạm của chúng và Yukinari đã phá hủy nó—hoặc đại khái là một phần của nó—bằng một cái chạm.

“Mình đoán là thứ đó quá to để một phát ăn ngay nhỉ,” Yukinari lẩm bẩm, đặt tay trước ngực. Cậu ép lòng bàn tay trái vào lòng bàn tay phải của mình.

“Đã thế thì—”

Cậu tập trung vào sức mạnh của mình. Cấu trúc có thể đơn giản. Cậu thực sự chẳng cần nhiều hơn một cái ống trụ. Cậu đã làm kíp nổ và thuốc súng nhiều đến mức chúng trở thành trạng thái nguyên thủy thứ hai. Điều mà thời khắc này đòi hỏi là thứ gì đó với lực phóng của một vũ khí chống tăng. Nếu cậu lên kế hoạch chỉ dùng nó một lần, thì một nòng là đủ. Cậu có thể làm nó từ thép mạ crôm-molypden, và cậu có thể nạp nitroglycerin, nitrocellulose và nitroguanidine vào đế. Một kíp nổ với đường kính lớn có thể châm ngòi cho nó.

Các vòng sẽ là thép không gỉ, xuyên giáp. Và cỡ…

Tiếng sửng sốt đồng loạt vang lên khi, ngay sau đó, Yukinari kéo ra một cái “gậy” dài gần hai mét ra từ lòng bàn tay trái. Mà không—nó không phải là một cái gậy, tất nhiên, mặc dù hình dạng thì giống. Về cơ bản, nó là một viên đạn Magnum .44 ngoại cỡ. Cỡ phải gấp ba lần bình thường, lượng thuốc súng có lẽ là gấp hai bảy lần, và nó có một ống trụ gắn như một cái nòng. Yukinari đã tạo ra nó nhanh đến mức nó không có gì để tự hào ngoài sự đơn giản tột bực, nhưng vì là thứ chỉ được sử dụng một lần, thì vậy là đủ rồi.

“Thử cỡ này đi nhé!”

Cậu trỏ “ngọn thương” vào người bức tượng, xếp thẳng hàng với một kẽ hở trên giáp của nó. Rồi, cậu lùi lại một bước và giơ tay phải lên, trước khi cho đế của “ngọn thương” —ấy là, kíp nổ—một cái đập chắc chắn.

Có tiếng súng — không, một vụ nổ. Tiếp theo là tiếng rít kim loại, và thân hình của vị thánh bảo hộ dặt dẹo khi một viên đạn cỡ 132 cm—một vật khổng lồ có đường kính 1,3 inch—xuyên qua không trung, xuyên qua bức tượng, và ra ở đầu bên kia. “Dầu thánh” đỏ thẫm đổ ra như máu từ vết thương — và rồi vũ khí giết người của Lệnh Truyền Giáo đổ sầm xuống như thể đang chết.

Đám hiệp sĩ thốt lên những tiếng không rõ ràng, gần như ngã lên nhau trong lúc trốn chạy. Yukinari quay về phía chúng, nhặt Durandall, thứ cậu đã bỏ qua một bên. Cậu nhắm vào—

“Yuki!” Dasa chạy tới, vòng tay quanh chiếc áo giáp màu xanh. “Yuki, Yuki, Yuki!”

“Ừ, ừ, anh ổn mà, chỉ cần— đừng có lắc anh nữa,” cậu lẩm bẩm trong lúc cô nàng siết cậu với vòng tay của mình. Lúc cô dừng lại, đám người truyền giáo cũng đã khuất khỏi tầm mắt.

Và rồi cậu đối diện với những nét sửng sốt trên mặt Fiona và Berta.

“Anh, là ai…hay …là cái gì… vậy?” Fiona phều phào.

Dễ hiểu thôi mà. “Thiên thần” ban đầu là một người nhân tạo, một trong những phép màu dự định sẽ được trưng ra để cải đạo quần chúng. Một công cụ cho việc truyền giáo. Kìa, đám người truyền giáo có thể nói, điều kỳ diệu đến từ sức mạnh đức tin chúng ta! Hòn đá này đã trở thành bánh mì. Hoặc là, Để đáp lại đức tin của chúng ta, Đức Chúa Trời đã gửi cho chúng ta một sứ giả để làm những công việc vĩ đại.

Tất nhiên, sự tồn tại của sinh vật này là bí mật đối với tất cả mọi người ngoài Giáo Hội, và bản thân thiên thần cũng thiếu ý chí của riêng nó. Đến cả hình dạng con người của nó phần nhiều còn liên hệ đến mục đích làm một vật trưng bày. Nhận thức hay bản ngã chỉ tổ làm cho một công cụ khó sử dụng. Vì vậy, trong số khoảng mười “thiên thần” tồn tại ngoài Yukinari, chúng thực sự chẳng khác mấy so với những con rối làm bằng thịt. Chúng chỉ hoạt động khi được các nhà truyền giáo sử dụng—theo nghĩa đó, chúng giống như bức tượng thánh bảo hộ.

Trong tất cả các thiên thần, chỉ duy nhất Yukinari có bản ngã. Jirina đã tạo ra cậu, và Giáo Hội đã giết chị ấy vì điều đó; sự tạo ra cậu, chúng nói, là một hành động nổi loạn chống lại các bậc tối cao của Giáo Hội.

Nhưng Yukinari, về phần mình, chỉ đơn giản là cười toe toét dưới chiếc mặt nạ.

“Đó là một câu hỏi hay chết đi được ấy.”

Yukinari và những người khác chất đám hiệp sĩ bị thương lên cỗ xe ngựa khổng lồ và quay lại Friedland. Đám lính còn lại của Lệnh Truyền Giáo đang ở đó hoàn tất “sự biến đổi” người dân — đó là, ban cho họ Thánh Dấu. Nhưng khi trông thấy Yukinari trong bộ giáp xanh của cậu, chúng khiếp sợ và sợ hãi đầu hàng. Tất cả những gì cậu phải làm là cho chúng thấy một phần của bức tượng mà cậu đã phá hủy. Nếu cậu đã đánh bại vũ khí mạnh nhất của chúng, thì chẳng có cách nào đám hiệp sĩ, với số lượng sụt giảm, có thể kiểm soát thị trấn này.

“Ch-Chuyện này chưa hết đâu!” Một tên hiệp sĩ, kẻ đã bị tập hợp lại ở quảng trường thị trấn, nói đầy thù hận. Hắn là một trong số người kẻ đã tới thánh địa; theo Fiona, tên hắn ta là Arlen. Cô nói rằng họ đã từng là bạn cùng lớp khi cô học ở thủ đô. Nhưng tất cả sự quen biết của họ, có vẻ cô hoàn toàn ghê tởm hắn.

“L-Lần tới, bọn ta sẽ — bọn ta sẽ mang tới thứ gì đó khủng bố hơn nữa! Hãy thất kinh trước đức tin đi! Năm bức tượng bảo hộ—mà không, mười! ”

“Thế,” Fiona nói với hắn, nghe có vẻ khích bác hơn là giận dữ, “ngươi sẽ quay trở lại trụ sở của Giáo hội Chân Chính và nói với họ rằng ngươi là một kẻ bất tài để vũ khí tối thượng của chúng bị phá hủy bởi một chàng trai phải không?”

Arlen giương mắt nhìn, cạn lời.

Fiona thì thầm với hắn: “Hay là chúng ta thỏa thuận thì sao, ta và ngươi?”

“M — Một thỏa thuận?”

“Mmhm. Ngươi gửi về một báo cáo giả cho cấp trên của ngươi. Ngươi có thể cứu vãn thể diện, và bọn ta không bị làm phiền bởi các đội quân “khai hóa” nữa. Nếu ngươi hứa không làm bất kì điều gì khiếm nhã, bọn ta sẽ để hiệp sĩ các ngươi sống ở đây. ”

Nếu họ chỉ đơn giản là đuổi Arlen và đám người còn lại ra khỏi làng, thì Lệnh Truyền Giáo sẽ thực hiện những nỗ lực khác để cải đạo khu vực này. Tất nhiên, cũng tương tự nếu họ giết các hiệp sĩ đang bị giam giữ. Tuy nhiên, nếu người Friedland có thể thuyết phục tên này gửi báo cáo sai sự thật, thì cả đôi bên đều có lợi.

Nhưng Arlen trả lời, “Thứ n-nô lệ các ngươi là ai mà dám đưa ra lời đề nghị như vậy cho bọn ta hả?!” Hắn chỉ vào những chiếc vòng mà mọi người trừ Fiona đều đeo quanh cổ. Mọi người nhanh chóng bộc lộ bản chất thật của mình dưới sự cầm tù, và mặc cho những lời hắn nói trước đó, rõ ràng này với Arlen và đồng bọn của hắn, những người dân quê này chẳng khác nào đầy tớ.

“Đúng rồi!” Các hiệp sĩ khác bắt đầu kêu vang. “Các ngươi không thể thách thức bọn ta, chừng nào còn đeo Thánh Dấu…!”

Có vẻ là một giai điệu đặc biệt phải được vang lên để giải phóng những chiếc vòng.

“Có phải đây là những cái vòng cổ mà ngươi đang nói tới không?” Yukinari bước tới một đứa trẻ—một trong những đứa cậu đã gặp ở trại trẻ mồ côi—và chạm vào cổ cô bé.

“Xin lỗi. Anh chỉ cần em giữ yên trong một giây thôi nhé.” Rồi cậu chạm vào chiếc vòng cô bé đeo. Chẳng mấy chốc sau khi cậu làm vậy nó biến thành bụi như cát trôi xuống đất.

Đám hiệp sĩ của Lệnh Truyền giáo chỉ có thể há hốc miệng.

“Vậy là giờ chúng ta hòa, phải không?

“Bọn ta… Bọn ta không bao giờ…!”

Arlen và đám hiệp sĩ của hắn rất chi bối rối. Một nụ cười khó chịu xuất hiện trên mặt Fiona.

“Thế thì,” cô nói, “các ngươi đề nghị bọn ta làm gì đây?”

Bạn đang đọc Bluesteel Blasphemer của Sakaki Ichirou
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi ST04012003
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.