Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

HÌNH THỂ CỦA THẦN

Phiên bản Dịch · 13894 chữ

Nhóm dịch : valvrareteam

CHƯƠNG 2: HÌNH THỂ CỦA THẦN

Có vẻ mối nguy trước mắt đã qua đi.

Những con động vật tạo thành cơ thể của con quái mang tên “thổ thần” dường như đều đã chết cả; không đến mức để được gọi là co giật. Có lẽ sau khi “lõi” của nó bị giết, tất cả chúng đều bị gỡ xuống theo cùng với nó. Cũng có thể là chúng đang giả chế—động vật đôi khi giả vờ chết khi chúng cảm thấy nguy hiểm—nhưng điều đó có nghĩa là chúng sợ Yukinari và nhận thức cậu như một mối đe dọa. Không hẳn là chúng sẽ tấn công đột ngột.

Dù sao thì-

“Chắc bây giờ thì không phải lo nữa.” Yukinari tiếp cận cô gái mặc đồ mỏng và nắm lấy sợi xích nối cổ cô với cái cọc sắt. “Dasa, ổn chứ?”

“Em … không bị thương,” Dasa trả lời đơn giản. Cô nàng chưa bao giờ biểu lộ cảm xúc ngay từ lúc đầu, nhưng sau cái chết của chị gái Jirina, nàng đã trở nên giống búp bê hơn nữa. Cô nàng có vẻ khá thờ ơ với bản thân, nên nếu Yukinari không hỏi, có khả năng cô nàng sẽ giữ im lặng, ngay cả khi bị thương nặng đi chăng nữa.

“Còn cô thì sao, cũng ổn chứ?” Yukinari hỏi cô gái trong khi cậu dứt sợi xích ra khỏi cây cọc.

“Aa-a-” Cô gái khẽ kêu lên vẻ ngạc nhiên. Giọng cô đầy bối rối và do dự, và không có nhiều cảm giác vui vẻ khi được thả ra. Hoặc có lẽ cô ấy chỉ đơn giản là vẫn còn sốc vì đã có một cái nhìn cận cảnh trước trận chiến vừa rồi.

“Hả? Cô không thích bị xích lại mà, đúng không? ”

Cô gái không đáp. Vẫn ngồi trên mặt đất, cô ngước nhìn gương mặt Yukinari. Trong một lát, nét mặt cô luân chuyển giữa ngạc nhiên và sợ hãi, song cuối cùng cô gật đầu một cách chắc chắn, như thể đã thuyết phục được bản thân điều gì đó.

“Vâng … Vâng, tôi …”

“Nghiêm túc nhé, làm sao? Có gì trên mặt tôi à?” Yukinari không biết phải làm thế nào.

Cô gái chỉ đơn giản lẩm bẩm lặng lẽ với bản thân thay vì trực tiếp trả lời câu hỏi của cậu. “Hiểu rồi … Tôi chắc những điều như thế này có thể xảy ra.”

“Mới bảo hồi nãy, cô đang nói gì vậy?” Yukinari hỏi lại, và cô gái ngẩng đầu lên nói với cậu rằng.

“Tôi phải thú nhận rằng mình chưa bao giờ nghe nói về một vị thần trong hình dạng của con người, nhưng … chắc ngài phải là vị thổ thần mới của vùng đất này.”

“Cái gì …?” Giờ thì đến lượt Yukinari bị bối rối. Cô gái không có vẻ là đang đùa giỡn hay nói nhảm. Nét mặt của cô ta nghiêm trọng quá thể đáng. Không có nhiều hiểu biết thông thường của thế giới này, Yukinari không thể hiểu nổi những gì cô ta vừa nói với mình. “Dasa, vui lòng cho tôi biết cô gái này đang nói về cái gì đi chứ.”

Biểu hiện của Dasa vẫn trung lập và cô nàng không trả lời. Có vẻ nàng ta không biết, mà trông giống đang nghĩ ngợi gì đó hơn.

“Tên em là Berta. Em là một vu nữ thờ phụng thổ thần của vùng đất này.” Cô gái hầu như chẳng hề đoái hoài tới sự lúng túng của Yukinari. “Em hiến dâng mình cho ngài. Xin hãy mang lại cho mảnh đất này sự an bình và các vụ mùa bội thu…” Cô gái trong bộ trang phục mỏng như sa tanh đứng thẳng trong giây lát, rồi chắp tay lại cầu khấn và quỳ xuống trước mặt Yukinari.

“Cô hiến dâng mình—”

Yukinari nhìn lại cô gái. Như đã đề cập lúc trước, cô ấy không khỏa thân, nhưng cách cô ta ăn mặc—nếu có thể gọi là ăn mặc—có lẽ còn khiến người ta dễ nứng hơn nhiều so với cả lúc không mặc gì nữa.

Nhờ bộ quần áo mỏng, cậu có thể nhìn thấy tất cả các đường nét trên cơ thể; thậm chí cậu còn thấy được cả các mảng sáng tối nhờ vào mức độ ánh sáng khác nhau xuyên qua vải. Nó không khác lắm so với việc phô ra toàn bộ. Hơn nữa, có lẽ vì đã bị liên lụy một chút vào trận chiến trước đó, quần áo của cô rách vài nơi và làn da trần lộ ra trên các vùng cơ thể vốn dĩ phải được che giấu. Cô ấy cũng ưa nhìn nữa. Một thanh niên khỏe mạnh mà lại không thấy rạo rực trước cảnh này thì đúng là kì lạ.

“Vâng. Kính thưa, em sẵn lòng làm theo mọi ý muốn của ngài. ”

“Hử? Thật không? Tôi có thể à? Thì, tôi không hiểu lắm, cơ mà—”

Phải chăng đây là một món quà? Một món quà truyền thống trong văn hoá của cô ấy? Chẳng phải từ chối một thứ gì đó được chuẩn bị đặc biệt cho mình thì sẽ thô lỗ lắm sao? Trong lúc Yukinari nghĩ ngợi về mấy điều ngu ngơ ngao ngáo này, cậu nghe thấy tiếng kim loại vang lên cách từ phía sau. Nhận ra đó là âm thanh lên cò của Ớt Đỏ, cậu giơ tay và cố gắng bào chữa.

“Ư. Anh không, ư. Em biết đấy. Tôn trọng văn hóa truyền thống thì bao ngầu luôn, cơ mà, ư, thì, anh có thể sống mà không có. ”

Thậm chí đến cậu cũng không thể hiểu nổi câu đó nghĩa thế nào.

“…Ngốc,” giọng nói máy móc. Yukinari ngoái lại nhìn qua vai thấy Dasa đang hạ Ớt Đỏ xuống—mới nãy cô nàng đã trỏ nó lên không—và gỡ cò súng.

Tầm hiểu biết của con người rất hạn hẹp.

Trong lúc những người lao động bình dân làm việc vất vả với mồ hôi lấm tấm trên trán, có thể đôi khi họ càu nhàu tị nạnh với đám quý tộc và quan chức chính phủ, những kẻ kiếm ăn bằng cách chỉ mỗi ngồi phía sau bàn làm việc. Tuy nhiên, hầu hết đa số lại gần như không có hiểu biết về những khó khăn mà người ở trên họ phải trải. Tất nhiên, điều này có cả chiều ngược lại: đám quý tộc và các quan chức không biết về sự gian khó của nông dân và thợ thủ công. Có thể họ hiểu được chúng theo cách hàn lâm, nhưng không thực sự cảm nhận được chúng. Và khi Fiona thi hành công việc như phó thị trưởng thị trấn được ủy quyền thay cho người cha nằm liệt giường của mình, cô nghĩ rằng mình cũng không phải là ngoại lệ.

Dĩ nhiên, cô không nghĩ rằng đó là một điều xấu. Mỗi người đều có một thiên chức từ khi sinh ra và đóng một vai trò trong xã hội. Và những vai trò đó đều sâu sắc, những người khác không dễ dàng hiểu được. Có những thứ mà chỉ người nông dân mới làm được, có những thứ mà chỉ thợ thủ công mới làm được, và có những công việc chỉ có thể được thực hiện bởi một quý tộc hay quan chức chính phủ.

Dù vậy, khi phạm vi cuộc sống của ta hạn hẹp, thì nó sẽ trở thành lối suy nghĩ của ta.

Chỉ một phần rất nhỏ của xã hội mới được phép đi học tại thủ đô như cô đã từng—chỉ có con cái của các tầng lớp đặc quyền. Ngay cả trong trường hợp của cô, cha cô đã phải giật dây kha khá để cô được học ở đó. Nói một cách máy móc thì họ là “quý tộc”, nhưng những ai bị bắt nạt ở cuối danh sách chắc chắn không giàu có. Gia đình Schillings là một gia đình địa phương quyền thế; “quý tộc” chỉ đơn thuần là một cái mác được thủ đô cấp cho nhằm mục đích tiện lợi.

Cách mà người dân thường nhìn nhận mọi thứ còn nông cạn hơn cả thế. Họ đã nhận lấy các lệ thường của tổ tiên như là một sự thừa hưởng.

Chẳng có ai băn khoăn về việc mặt trời mọc vào buổi sáng hay lặn xuống khi đêm đến. Cho dù ai đó có nỗi băn khoăn như vậy đi chăng nữa, thì rồi nó sẽ sớm bị lãng quên trong sự nhộn nhịp của cuộc sống hàng ngày. Với một từ “hiển nhiên”, mọi người ngừng suy nghĩ, và thậm chí còn chẳng thèm chú ý đến môi trường xung quanh họ. Cuộc sống ở thế giới này quá khắc nghiệt để chịu đựng được theo bất kỳ cách nào khác—và bản thân Fiona cũng hiểu rõ điều đó.

“… Tôi chắc lúc này thổ thần đã ăn xong cô ấy rồi,” Fiona lặng lẽ nói, thả ánh mắt trôi ra khung cửa sổ.

Trên danh nghĩa, một vu nữ phụng sự thần linh. Trên thực tế—một món đồ cúng cho thổ thần.

Ngay cả một nghi lễ dối trá như vậy cũng có thể trở thành “truyền thống” sau một trăm hoặc một ngàn năm. Các cô gái gần bằng tuổi cô thường được hiến dâng và bị ăn tươi nuốt sống bởi những sinh vật tự xưng là thần. Cô hiểu rằng con đường này dẫn đến số nạn nhân ít nhất, nhưng nghi lễ đã kéo dài quá lâu đến nỗi ngay cả cảm giác các cô gái là “những nạn nhân” cũng đã bắt đầu phai nhạt. Có vẻ các linh mục đã dạy lũ trẻ mồ côi ứng cử để trở thành vu nữ rằng hiến dâng cho thổ thần là một vinh dự to lớn.

“Nếu được sinh ra trong hoàn cảnh khác, cuộc sống của cô ấy lẽ đã khác hẳn …”

Họ là những đứa trẻ không có ai để nương tựa. Bởi lẽ họ không có cha mẹ, nên hầu như không có ai phản đối nếu bị biến thành các vật tế. Vậy là một trại trẻ mồ côi đã được tạo ra để cung cấp những vật tế đó một cách hiệu quả, và các linh mục đã truyền giáo cái danh nghĩa tốt đẹp của nó, để không bị hành hạ bởi chính sự cắn rứt lương tâm của mình.

Nếu không có vật tế, thì mọi người sẽ rất khó để sống ở vùng đất cằn cỗi, kiệt màu này. Rõ ràng là nếu không có sự bảo vệ của “thổ thần”, thì hàng trăm người, nếu không hơn, sẽ chết mỗi năm. Fiona hiểu thấu điều đó. Nhưng đồng thời, cô biết: những sinh vật được gọi là thổ thần chính là những con “quỷ” được dạy dỗ tại Nhà thờ Trung tâm của thủ đô.

Thổ thần không phải là công lý tuyệt đối. Chúng thậm chí còn chẳng đại diện cho ” cái tốt”. Lý do duy nhất chúng được tôn sùng trong một thời gian dài là vì không có lựa chọn nào tốt hơn. Với cái giá là một sinh mạng, nhiều người có thể được cứu. Fiona có thể tranh cãi thế nào về điều đó được đây? Lựa chọn duy nhất là thuyết phục bản thân rằng con đường này là “tốt nhất”.

Fiona ngừng viết, nhẹ nhàng nhắm mắt lại, và xoa mí mắt. Dừng lại ở việc này chẳng có nghĩa gì cả. Các vu nữ có vai trò của họ, và Fiona cũng vậy. Và nếu các “vu nữ” sẽ hoàn thành chức trách của mình, thì việc Fiona bỏ bê cái của mình chắc chắn không thể được tha thứ.

Cô thở dài và trở lại nghĩa vụ của mình. Nhưng trước khi kịp viết một từ khác, có tiếng bước chân ráo hoảnh, và cánh cửa văn phòng đột nhiên bật mở.

“Phu nhân!”

Một hàng đầy tớ với khuôn mặt đầy hoảng hốt xếp thành hàng trước mặt Fiona. Cô nhíu cả mày lại, hoàn toàn có ý định khiển trách họ vì sự khiếm nhã.

“Ồn ào cái gì vậy? Gõ cửa trước khi vào—”

“Thứ lỗi, thưa Phu nhân… Đây là chuyện gấp!” Tất cả họ đều kích động kinh ngạc; các tĩnh mạch đang phình ra trên vầng trán đẫm mồ, và họ gần như nín thở. “Phu nhân,” họ kêu la như thể đang thét, “có chuyện—có chuyện nghiêm trọng đã xảy ra tại thánh địa!”

Những sinh vật được gọi là thổ thần rất đặc biệt.

Những thực thể tương tự bao gồm “á thần” và “ngoại thú”… hoặc đúng hơn, thổ thần và á thần về bản chất là cùng một thứ. Khác ở chỗ chúng có “định cư” tại một vùng đất cụ thể hay không.

Điểm xác định của “thổ thần”, theo nghĩa đen là “vị thần của một vùng đất”, đó là chúng có năng lực hình thành liên kết thiêng liêng với một khu vực cụ thể và gây ảnh hưởng đến nó.

Thổ thần có thể thao túng môi trường của mảnh đất mà chúng định cư. Không những chúng có khả năng bón phân cho đất, hô mưa, và điều khiển sự bội thu của mùa màng, mà chúng còn có thể bảo vệ con người khỏi thiên tai, như lũ lụt và bão. Mặt khác, một khi thổ thần cắm rễ một mảnh đất, chúng sẽ không còn tự do đi xa được nữa.

Một cách công khai, người ta nói rằng các vu nữ đã được gửi tới chỗ thổ thần để làm giảm sự buồn chán của nó. Tuy nhiên…

“Ưm, Đức Thổ Thần?”

“Cô đang không hiểu đấy. Tôi không phải là thổ thần. ”

Cô gái nghiêng đầu. Dường như cô đang nghĩ ngợi. Đột nhiên, một biểu hiện băn khoăn lướt qua mặt cô. “Em không đủ tốt để thỏa mãn ngài sao?”

“Ôi, không, với vẻ ngoài của cô, thì tôi sẽ cực kì thỏa mãn. Tôi—” Yukinari đột ngột dừng lại khi nghe thấy tiếng lên cò của Ớt Đỏ đằng sau mình lần nữa.

“Này nhé. Tôi không nhớ là đã từng trở thành một thổ thần, okê? Ừm, xem nào, tên cô là gì? ”

“Tên em là Berta,” cô gái nói, kính cẩn cúi đầu. Có vẻ Berta đã hoàn toàn hiểu nhầm Yukinari là một thổ thần và nghiêm túc về việc dâng mình cho cậu. Yukinari, mặt khác, không thể hiểu nổi lý do đằng sau việc đối xử với cậu như một vị thổ thần mới chỉ vì cậu đã tự mình hạ được một vị.

“Dasa, giúp cái coi,” Yukinari cầu xin, quay lại nhìn cô nàng tìm kiếm sự giúp đỡ.

“…Em đã từng nghe điều này trước đây từ… chị mình,” cô nàng tóc bạc nói ngắc ngữ khi mở cổng nạp của Ớt Đỏ và đổi những vỏ đạn rỗng bằng các viên mới. “Một vị vua có thể… lên ngôi bằng cách giết vị vua trước … và cướp đoạt ngôi vị của người ấy … và các vị thần cũng… thế.”

“Éo gì?” Yukinari rên rỉ. “Chế độ dã man quá đấy.”

“Thổ thần … bị ràng buộc với đất đai. Bằng cách định cư tại một nơi … chúng đạt được một số quyền hạn… nhưng… chúng lại trở thành một phần của mảnh đất… nên là…” Dasa đóng cổng nạp cách một cái. “…chúng không … chết.”

“Có mà nó có chết đấy. Dễ nữa là đằng khác. ”

“Ý em là chúng không già đi. Nhưng… như động vật… chúng dần dần ‘ suy yếu’. Tinh thần chúng mỏi mệt. Bởi vì chúng đang trở thành một phần của núi, sông, và … thung lũng. ”

“Hừm. Không chắc mình có hiểu đúng hay không nữa…”

“Đó là lý do tại sao—” Dasa dừng tay lại. “Đó chắc hẳn là… lí do… tại sao chúng lại ăn… thịt người. Để bảo vệ… bản thân… chúng ăn… người… có… cái tôi mạnh mẽ.”

“Em đang nói về trí thông minh hay gì đó à?”

“Chắc thế…” Dasa gật đầu.

Chúng ăn thịt người không phải để duy trì thể vật chất, mà để duy trì tinh thần của chúng, bao gồm cả trí thông minh—để giữ lấy cái tôi. Những sinh vật khác cũng có thể sẽ ổn, nhưng có lẽ ăn thịt người thì hiệu quả về mặt tinh thần hơn hay gì đó, người vốn đã có trí thông minh. “Đây chỉ là suy nghĩ của em… nhưng… Em nghĩ rằng các á thần khác đang tấn công và giết hại thổ thần chính là … một dạng trao đổi chất.”

Cái mới thay thế cái cũ. Trong thế giới luôn thay đổi này, không có gì đặc biệt cụ thể. Và trong phạm vi mà chúng không thể bị giết, thì việc quay vòng của những con thổ thần bất tử được thực hiện thông qua việc chúng bị quật ngã như những con thú hoang. Thông tin của Dasa đến từ chị gái của cô nàng và dường như dính dáng đến một số lượng lớn các phỏng đoán và giả định, nhưng Yukinari nghĩ rằng nó có nghĩa một cách lôgic.

“Ưm … Đức Thổ Thần?” Berta rụt rè nói với Yukinari.

“Tôi phải nói với cô mình không phải thổ thần bao nhiêu lần nữa hả?”

“Không, ngài đã quật ngã vị thổ thần trước. Em vẫn tin rằng những người duy nhất có thể đánh bại một thổ thần là những con người có thần tính tương đương. ”

“Không, nghiêm túc nhé, tôi chỉ giết nó như thường thôi. Với cái này.” Yukinari chỉ vào vũ khí trong tay, Durandall, nhưng Berta dường như không để tâm đến nó.

“Xin hãy ban cho mảnh đất này sự bảo hộ, an bình, và vụ mùa bội thi… Làm ơn… Làm ơn…” Berta cầu xin thành khẩn hơn bao giờ hết.

Yukinari ngước nhìn bầu trời trong chốc lát. “Không. Tôi từ chối.”

“Đức Thổ Thần …?”

“Tôi không phải là thổ thần, và không có ý định trở thành một vị. Tôi không biết làm thế nào, và hòa làm một với đất đai và mất ý thức về bản thân mình ư? Không cảm ơn. Tôi cũng không thích ăn thịt đồng loại. ”

Cô gái im lặng.

“Tôi không đặc biệt. Vũ khí của chúng tôi chỉ là hơi lạ một chút. Đó là lý do duy nhất chúng tôi có thể giết được Thổ thần. Cô cũng có thể làm được. Tội sát thần. Chỉ cần biết cách sử dụng những thứ này và không loạn lên là được.” Cậu liếc Dasa, và Berta nhìn theo, nhìn cô nàng với vẻ sợ hãi.

Dasa gật đầu và dựng Ớt Đỏ. “Yuki không bình thường… nhưng… cái đó khác… thổ thần đã bị đánh bại… chủ yếu là nhờ lực lượng vũ trang.”

“Đừng có nói người ta như kiểu biến thái bệnh hoạn thế chứ,” Yukinari càu nhàu.

Berta xen vào. “Nhưng đó là—”

“Dù sao thì!” Yukinari cắt ngang. “Cô không phải bị ăn nữa, okê? Bây giờ thì cứ trở lại thị trấn của cô đi đã. Mà thực ra, chỉ đường cho tôi đi, được chứ? Có cả đống thứ tôi cần phải kiếm nè.”

“Ngài không phải là thần …” Có vẻ Berta vẫn bị kẹt ở đó. Nhìn lại Durandall, cô nói với giọng thấp, “Anh nói rằng thanh kiếm kì lạ đó chính là thứ đã quật ngã thổ thần.”

“Chuẩn. Tôi không lớn lao và vĩ đại như một vị thần, tôi chỉ là một—” Yukinari do dự giây lát. “Một con người,” cậu nói dứt khoát.

Trong chốc lát, Berta tỏ vẻ ngần ngại. Rồi, cô lần lượt nhìn Yukinari và Dasa. “Em vô cùng xin lỗi. Em không quá sáng dạ, nên vẫn không hiểu lắm, nhưng em sẽ chỉ đường cho hai người về thị trấn nếu đó là yêu cầu. Em phải đi thôi, để giải thích mọi việc cho các linh mục. ”

“Giờ cứ thế đã. Cảm ơn.” Yukinari thở dài thườn thượt.

Báo cáo của các linh mục đã gây kinh ngạc.

“Cậu ta đã giết Thổ thần? Một con người, một mình?” Thành thật mà nói, Fiona không thể tin nổi.

Chúng có thể được gọi là thổ thần, nhưng ban đầu chúng là những sinh vật sống. Giết chúng không phải là điều không thể. Thậm chí đã có tiền lệ, mặc dù cô chỉ biết về điều đó và không tận mắt chứng kiến. Tuy nhiên, nếu cô nhớ không lầm, thì đó là một trường hợp đặc biệt, liên quan đến hàng tá, hàng trăm người, đặt bẫy và đem vũ khí ra bao vây. Ít nhất thì, thổ thần không phải là thứ mà chỉ một hoặc hai con người có thể giết mà không có bất kỳ sự chuẩn bị nào trước.

“Ngươi có chắc là không có sai sót gì không?”

“Vâng, thưa Phó Thị trưởng”, một linh mục nói với Fiona. Ông ấy tỏ vẻ kích động. “Tôi xin thề—chúng tôi đã thấy một con người, có vẻ là một lữ khách, đã quật ngã vị thổ thần.”

Chắc hẳn họ đã chạy về đây từ bục quan sát nghi lễ. Tóc và quần áo của các linh mục ướt đẫm mồ hôi, và họ vẫn đang thở hổn hển. Một linh mục có miếng vải nhuốm máu dính trên trán. Khi được hỏi, ông ta nói rằng đã vấp ngã và bị thương trên đường trở về. Dù thế nào thì, câu chuyện này quá rối rắm để được coi là nói dối, mà cũng chẳng có lí do để làm vậy.

“Cho tôi xin được hỏi ý kiến.” Fiona hướng mắt về vị linh mục cao tuổi đã đến thăm dinh thự cùng với họ.

Cụ là lãnh đạo của tất cả các linh mục trong thị trấn này, và chịu trách nhiệm tổ chức các nghi lễ. Giống như Fiona, cụ đến từ một gia đình đã sống ở thị trấn này qua nhiều thế hệ. Cụ cũng nằm ngay đầu danh sách những người chưa bao giờ đặt câu hỏi về nghi lễ. Tuy nhiên, kiến ​​thức sâu rộng của cụ cho thấy cụ đã trải nhiều năm của mình một cách thông thái.

“Liệu một cá nhân có thể giết được thổ thần hay không?” Fiona hỏi.

“Về lí thuyết thì không thể…” vị linh mục tối cao cau mày nói. “Nhưng mà… điều đó giống như hỏi rằng liệu một cá nhân có thể nâng một ngọn núi hay chặn một dòng sông vậy.”

Tất cả mọi người, kể cả Fiona, đều nín lặng.

Con người có khả năng sử dụng tay và chân để đào đất và mang đá. Chắc chắn một cá nhân sẽ có thể thay đổi địa hình như vậy, nếu họ có thể dành vào nó một trăm hoặc một ngàn năm. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn phi thực tế. Hiểu theo cách đó, gọi nó là bất khả thi cũng không có gì là cường điệu

Những lời của vị linh mục tối cao hoàn toàn hợp tình hợp lí.

Thị trấn Berta sống gần một cách ngạc nhiên.

Yukinari cảm thấy rằng họ chỉ mất khoảng một giờ đi bộ. Dù đó là con đường núi, nhưng bởi tuyến đường giữa thị trấn và “thánh địa” ít ra đã được san bằng và bảo trì một chút, nên nó có thể được gọi là một cuộc hành trình dễ dàng, về mặt khoảng cách.

Thị trấn được xây dựng theo lối tiêu chuẩn cho một thành phố nông thôn nhỏ. “Các bức tường” bao bọc quanh nó nhằm tránh động vật. Chúng đã được dựng lên bằng cách chất đống đất và xếp chồng gạch với đá. Có những cánh cổng kích cỡ khác nhau theo nhiều hướng. Được dẫn dắt bởi Berta, nhóm của Yukinari bước vào thị trấn thông qua một trong những cánh cổng nhỏ.

Có vẻ là không có thứ gì giống quán trọ—theo Berta, thì hầu như vốn chẳng bao giờ có bất kỳ khách thăm quan nào đến một thị trấn nhỏ như thế này—vậy nên nhóm Yukinari đã từ bỏ ý tưởng đó và hướng đến phố chợ để mua thực phẩm và một số đồ dự trữ.

“Hửm? Gì đây?”

Yukinari cảm thấy khó chịu một cách kì lạ. Tất cả xung quanh, những người dân thị trấn đều đang bắn ánh mắt về phía họ. Mà không—chúng không hướng về Yukinari và Dasa, mà là Berta, người đang dẫn dắt họ.

Đây hoàn toàn không phải là ánh nhìn ấm áp của mọi người chào đón người sống sót, nhưng cũng quá lạnh lẽo. Khó mà quy được những ánh nhìn này về một cảm xúc, nhưng cái mà dường như có khả năng cao nhất là “bối rối”. Mọi người đang lúng túng nhìn Berta, như thể họ vừa thấy thứ đáng lẽ không nên ở đó.

“Tôi đã giết con quái vật và cứu một cô gái sắp bị tế cơ mà. Nhìn cô ta mà xem, trở về nhà bình an vô sự. Lẽ ra họ phải hài lòng chứ?”

“Yuki … không phải thế. Em nghĩ rằng đây… là…”

Như thể những lời của Dasa là lệnh phát động—mặc dù đó chắc chắn là sự trùng hợp—những người dân thị trấn bắt đầu tụ tập lại. Có vẻ họ đã quyết định ý chí tập thể của họ. Họ đứng xung quanh Yukinari và những người còn lại, chặn đường cả trước lẫn sau.

“Hả? Người ngoài không được hoan nghênh ở đây, có phải không? ”

“Này! Berta!” Một cư dân nói với giọng lên án. “Cô đang làm gì ở đây thế?”

“… Tôi …” Berta nhìn xuống đất, chẳng biết nói gì. Thật ra, có lẽ gã ta đang cáo buộc cô.

“Tại sao cô lại còn sống trở về? Cô là một vu nữ cơ mà! Lẽ ra cô phải là một vật tế cho thổ thần chứ!”

Một khi có người lên tiếng miệt thị Berta, đám còn lại liền hùa theo theo sau như một phản ứng dây chuyền.

“Chuyện gì đã xảy ra với thổ thần rồi? Chắc là cô không… làm hỏng cái gì chứ hả?”

“Tốt hơn hết nhà cô không nên chạy trốn về đây thay vì làm tròn bổn phận của mình!”

“Mày nghĩ tại sao bọn tao lại phải đóng thuế để nuôi dưỡng trại mồ côi hả—”

“Nếu ngươi đã kích động cơn thịnh nộ của thổ thần, thì thị trấn này tàn thật rồi…”

Những người dân thị trấn ném đá Berta bằng những lời lẽ khắc nghiệt, tới tấp. Chẳng hề có tiếng mừng nào trước việc cô còn sống trở lại.

“…Yuki.” Dasa lặng lẽ gọi tên và chạm tay phải cậu.

Yukinari suýt nữa thì đã hét vào mặt họ. Thở ra chậm rãi, cậu giải tỏa áp lực đang dồn nén bên trong mình.

Chỉ tới khi đó—

“Các người đang làm gì vậy?!” Một giọng nói đến từ phía cuối con đường làm im tiếng người dân thị trấn và những lời chỉ trích gay gắt của họ. Tự hỏi chuyện gì đang xảy ra, đám đông nhìn qua và thấy vài người đàn ông đang mặc những thứ có vẻ là áo choàng của linh mục đứng bên kia hàng người dân thị trấn. Họ tạo thành một con đường cắt qua cho cả nhóm và, sau khi đẩy các cư dân thị trấn sang một bên, họ dừng lại trước Yukinari và những người khác—không, trước mặt Berta mới đúng.

Chắc là đám linh mục của thị trấn này. Vâng, rất hân hạnh vì các vị đã bịt mõm cái đám này lại… cơ mà…

Việc họ là linh mục tất nhiên có nghĩa là họ thờ phụng các thổ thần. Tức là—

“Berta …” Một vị linh mục gọi cô ấy bằng giọng nhẹ nhàng. “Hãy ngẩng đầu lên đi.”

Berta vẫn cúi đầu im lặng. Trông cô giống một tên tội phạm sắp sửa lãnh án.

“Ta bảo con là, hãy ngẩng đầu lên,” người đàn ông nói, giọng sắc vẻ nguy hiểm.

“Vâng, thưa Cha.” Run rẩy, Berta ngẩng đầu.

Với một nụ cười nhẹ, vị linh mục nhìn gương mặt cô gái. “Tại sao một vu nữ đã tới thánh địa để làm công việc của mình lại ở đây, trong thị trấn này?”

Berta không nói.

“Dù chỉ một khắc ta cũng không tin rằng thổ thần lại không ở đó.”

“Thưa Cha, con—”

“Đừng có cãi!” Tự dưng, vị linh mục lên giọng và hét vào mặt cô ấy. Berta rúm ró cả lại như thể vừa bị sét đánh. Tuy nhiên, vị linh mục đã nhanh chóng quay lại giọng bình tĩnh lúc đầu và nói tiếp. “Hơn ai hết con phải là người hiểu rõ vai trò của mình nhất chứ. Tại sao con lại trở lại? ”

Lời lẽ của vị linh mục cuối cùng cũng chẳng khác gì những người dân khác trong thị trấn. Mà không, thực ra thì, cảm giác như cuộc chất vấn của lão mới chính là cái khắc nghiệt hơn cả.

“Yuki—”

“Ê! Ông bạn!” Yukinari chắn giữa Berta và vị linh mục. Lần này, Dasa còn chẳng có thời gian để cản cậu. “Một cô gái từ thị trấn của ông đã trở về nhà an toàn. Tôi không nghĩ cô ấy xứng đáng bị đối xử như thế. ”

“Thế cậu là ai?”

“Là lữ khách phải không…? Đang nói cái gì vậy?”

“Nếu cậu là người ngoài cuộc, chúng tôi sẽ rất cảm kích nếu cậu tránh xa khỏi chuyện này.”

“Có thể hiểu rằng một kẻ lang thang như cậu thì không biết mọi việc ở đây diễn ra như thế nào, nhưng ngay cả thế—”

Bản thân lời nói thì lịch sự, nhưng giọng của họ thì lại tỏ rõ điệu lăng mạ. Yukinari cau mày, và bước tới. Cậu phân vân xem liệu có nên thụi cho mỗi người ở đây một quả đấm vào đầu cho tỉnh ra không, nhưng rồi-

“Dừng lại! Ở yên đó, tất cả mọi người! ”

Một giọng nói lạ khiến Yukinari dừng bước. Cậu nhìn lại nơi nó phát ra và thấy một cô gái trẻ đứng đó, thở hổn hển. Chắc cô ta đã vội vã đến đây. Có chút mồ hôi lấm tấm trên trán, và mái tóc vàng dài rũ rượi hết cả. Bộ váy liền thân trang nhã cô đang mặc càng làm nổi bật lên vẻ lúng túng.

“Do hoàn cảnh, tạm thời nghi thức đang bị hoãn lại!” Người phụ nữ trẻ cắt ngang đám đông giống các vị linh mục trong lúc nói. “Tất cả mọi người, cứ trở lại làm việc đi!”

Người dân thị trấn nhìn nhau và miễn cưỡng giải tán. Có một số người nhìn chằm chằm vào nhóm Yukinari—hay đúng hơn là Berta—trong lúc bỏ đi, nhưng không ai trong số họ có ý định tiếp tục quấy rối bằng lời nói—ít ra bây giờ là vậy. Sau khi họ rời khỏi, những người duy nhất còn lại là Yukinari, Dasa, Berta, người phụ nữ trẻ, và các linh mục. Mà không, còn một người nữa.

“Phó Thị trưởng …!” Một người đàn ông đứng tuổi trong bộ y phục đến. Cả cụ này, dường như cũng là một linh mục, nhưng quần áo của cụ hơi khác so với những người khác. Chắc hẳn vị thế—hoặc thứ hạng—của cụ khác hẳn. Có vẻ cụ đã theo cô gái tới đây. Nhưng không giống cô, cụ dừng lại giữa đường và không hề cố gắng tiếp cận nhóm Yukinari.

“Tạm thời tôi đã đuổi bọn họ đi rồi,” cô gái được gọi là Phó Thị trưởng nói, nhìn Yukinari. Vâng—những lời đầu tiên của cô gái đã không được nói với Berta, mà là cậu. “Liệu ba người có phiền lắm nếu tôi mời cả nhóm đến dinh thự của tôi không?”

“Phó Thị trưởng—Phu nhân, không được,” vị linh mục đứng tuổi nói vẻ quở trách. “Cậu ta là tội nhân đã can thiệp vào nghi thức—”

“Đã can thiệp vào nghi thức?” Ba vị linh mục đến lúc đầu ngạc nhiên nhìn Yukinari.

“Vậy thì hẳn là gã này đã chiếm lấy vu nữ—”

“Tội đồ…!”

Các linh mục lần lượt lên án Yukinari, rồi tiến lên để bắt cậu; có lẽ họ định bắt giam cậu. Yukinari lùi lại thủ thế. Nhưng các linh mục vẫn chưa dừng lại.

“Tôi nghĩ chúng ta nên bắt hắn, chém đầu, và tế lại cả hắn cùng với vu nữ. Chúng ta nên cầu xin sự tha thứ của thổ thần. ”

Nghe vậy, Yukinari bèn đặt tay lên Durandall, đang trượt trên lưng cậu. Tuy nhiên—

“Mấy người có bị điên không thế?! Tính đánh nhau với thứ này à?! ” phó thị trưởng hét lên, chỉ tay vào Yukinari. “Nếu báo cáo của những người chứng kiến nghi thức chính xác, thì chính thứ này đã quật ngã thổ thần! Chỉ một mình thôi đấy!”

“Thứ? Này? Gì cơ?” Yukinari cau mày trước sự hoàn toàn không báo trước của phó thị trưởng. Tuy nhiên, sự bột phát của cô ấy có ảnh hưởng đến các linh mục hơn bất cứ điều gì khác.

“Cậu ta đã làm vậy với thổ thần ư…?”

“Quật ngã? Ý là giết nó hả?”

“Vâng!” Cô ấy thực sự hét lên với họ.

Các linh mục nhìn nhau vẻ không tin, rồi quay lại nhìn Yukinari. Sau đó, như thể đột nhiên nhận ra rằng mình đang thực sự đối mặt với một con quái vật khủng khiếp, tất cả họ đều lùi lại một bước.

“Xin hỏi, tên ngài là gì?” Cô gái trẻ hỏi.

“Yukinari,” cậu trả lời, cảm thấy nhẹ nhõm khi mà đây, rút cục, là một người trông có khả năng trò chuyện một cách hợp lý. Tất nhiên, có thể chỉ đơn giản là cô gái này đang thận trọng vì biết rằng Yukinari đã giết Thổ thần. Có khi cô ta cũng cảm thấy ghê tởm Berta như những người khác. “Nếu khó gọi thì cứ Yuki là được rồi. Đây là Dasa. ”

“Yukinari, Dasa. Tôi tên là Fiona Schillings. Còn chị là… Berta, tôi tin là thế. Xin mời ba người tới dinh thự của tôi. Vui lòng đi theo tôi nhé.”

Người phụ nữ trẻ nghiêm túc nói, gần như đang ra lệnh cho họ. Quay gót, cô bước trở lại lối vừa đến. Vị linh mục đứng tuổi và các linh mục khác cũng vội vã theo sau cô.

“Phó thị trưởng đang nghĩ gì thế nhỉ?”

“Hắn đã giết thổ thần của chúng ta… Chắc chắn phu nhân sẽ không—”

Các linh mục thì thầm với nhau.

Không có dấu hiệu cho thấy nhóm Yukinari sẽ được hoan nghênh, song mặc dù đã đến được chợ, xét theo hành động mới nãy của người dân thị trấn, thật khó để mà tưởng tượng rằng chuyến đi mua sắm của họ sẽ diễn ra suôn sẻ. Lúc này làm theo lời cô ấy nói chắc chắn là bước đi an toàn nhất.

Yukinari và Dasa nhìn nhau. Họ đã làm những gì có thể để động viên Berta, và cả ba người họ theo sau cô gái.

Khi mời ba người vào biệt thự—chàng trai trẻ tuổi tự xưng Yukinari, cộng sự của cậu, và cô vu nữ—tâm trí Fiona điên đảo. Yukinari là cái quái gì? Có vẻ không nghi ngờ gì nữa chính cậu ta đã đánh bại Thổ thần… nhưng như vị linh mục tối cao đã nói, thật không thể tưởng tượng được rằng một con người bình thường lại có thể đánh bại được thần.

Thổ thần và á thần có nguồn gốc từ động vật, nhưng bằng cách sống lâu và được ban cho trí thông minh, chúng đã vượt ra khỏi phạm trù động vật. Xét về năng lực, chúng vượt qua cả con người, và bởi vậy nên chúng được gọi là thần. Thổ thần đơn giản chỉ là á thần đã cắm rễ tại một khu vực cụ thể, nhưng một khi hấp thu năng lượng của đất, nó trở nên cứng cáp hơn nhiều so với hồi còn là á thần. Nó sẽ không còn chết vì tuổi già nữa, và dù bị cắt bằng kiếm hay bị đâm bởi giáo, nó hầu như không thể bị thương chút nào, không tính vết thương chí mạng.

Nếu có bất cứ thứ gì đánh bại được thổ thần trong một cuộc chiến một-đối-một, thì hẳn phải là một á thần khác. Và trên thực tế, mặc dù điều ấy hiếm khi xảy ra, một thứ như “sự thay đổi thổ thần” đã được biết là có thể. Các bản ghi chép của gia đình Schillings cho thấy rằng trong khoảng ba trăm năm trở lại đây, đã có hai—chỉ hai—trường hợp được ghi lại trong đó á thần đã tấn công thổ thần, giết nó, và tự trở thành một thổ thần. Tức là chỉ có một điều duy nhất—

Rằng chàng trai Yukinari hẳn phải là một á thần hoặc một thứ tương tự…

Ngay cả Fiona, người từng trau dồi kiến thức tại thủ đô, cũng chưa từng nghe nói đến một vị á thần nào mang hình dạng con người. Tuy nhiên, cả con người và động vật đều là những sinh vật sống. Xét đến điều này, thì ý tưởng rằng một con người cũng có thể, vì một lý do nào đó, sống một thời gian rất lâu, và do đó trở thành á thần, không thể hoàn toàn bị bác bỏ.

Bất kể thế nào, Yukinari cũng giống như một vị thần. Không những có thể nói sõi ngôn ngữ loài người, mà đạo đức của cậu còn gần với con người và cậu có thể nói chuyện một cách hợp lý, không giống như các á thần khác. Ít nhất thì, không có vẻ là cậu đã đụng chạm đến Berta, người được dâng lên như một vật tế. Phải chăng điều này có nghĩa là sẽ có thể đàm phán với Yukinari theo một cách khác hơn là dâng vật tế?

Sau khi đi bộ xuống hành lang một lúc, Fiona mở cửa phòng khách. “Cứ vào đi. Xin lỗi vì đống bừa bộn nhé.”

“Cảm ơn.”

“Tôi cũng…thế.”

Yukinari và Dasa vào trước, rồi đến Berta, rồi vị linh mục tối cao và các linh mục còn lại. Khi mọi người đã vào hết, Fiona đóng cửa và đưa ghế cho Yukinari với hai người bạn của cậu.

Lý do mà cô đưa ghế cho họ trước, chứ không phải các linh mục hay vị linh mục tối cao, là bởi ưu tiên hàng đầu của cô lúc này là không làm mếch lòng Yukinari. Có khả năng Yukinari sở hữu sức mạnh sánh ngang với một thổ thần, và nếu như vậy thật, thì chỉ cần thích lên là cậu có thể giết sạch mọi người ở đây mà chẳng thấy phiền hà gì. Chẳng thế mà mới nãy các vị linh mục lại phản đối việc mời họ tới cơ ngơi cùa nhà Schillings.

Tuy nhiên, nếu cô bỏ lại nhóm Yukinari ở đó, thì chắc chắn điều ấy sẽ phát triển thành một loại rắc rối. Và có thể kết quả sẽ là cư dân thiệt mạng. Thân là phó thị trưởng, cô không thể cho phép điều đó xảy ra, cho dù điều đó có nghĩa là mời một con quái vật vào nhà riêng của mình.

“Điều đầu tiên,” Fiona nói, ngồi đối diện Yukinari và những người khác. “Tôi muốn nghe trực tiếp. Yukinari, ngài đã giết Thổ thần, đúng không?”

“Chuẩn rồi,” cậu nói, gật đầu thành thật. Một vài vị linh mục đã không được thông báo về tình hình khẽ rên rỉ, nhưng giờ không phải lúc chú ý đến họ.

“Ra vậy. Thành thật mà nói, tôi khá nhẹ nhõm khi biết người giết Thổ thần tiền nhiệm là một người như ngài, một người mà tôi có thể thuyết phục được. Vì nếu một vị thần kế nhiệm khó ở xuất hiện, thì điều đó thực sự sẽ đe dọa sự sống còn của thị trấn.”

“Có vẻ như cô lại là một người khác nghĩ rằng tôi là á thần hay thổ thần gì đó ha.” Yukinari lại thở dài thườn thượt. “Tôi không giống vậy. Tôi là con người.”

“Nhưng anh đã giết thổ thần,” Fiona nói, nhìn thẳng vào mắt Yukinari. “Giết thổ thần vượt quá khả năng của một người. Ngay cả người lính lão luyện nhất cũng không thể tự mình giết một trong những thứ đó. Anh đã làm thế nào mới được cơ chứ?”

“Cái này.”

Yukinari tháo mảnh trang bị—có vẻ là một vũ khí—trên lưng và cho Fiona xem. Nó có một cái khung cồng kềnh, nhưng mặt khác, nó lại trông không khác gì một thanh kiếm bình thường. Hay biết đâu cái khung chứa đựng ẩn ý gì đó? Trông nó giống như có một cấu trúc phức tạp.

“Vũ khí này hơi đặc biệt một chút. Nếu được thì, cô có thể nghĩ nó giống như một loại ma thuật.”

“Ma thuật, anh vừa nói…”

Fiona đã từng nghe câu chuyện về những người làm sáng tỏ tri thức ẩn sau tất cả mọi thứ, và sử dụng nó để khiến những điều không thể giải thích xảy ra. Tại thủ đô, Giáo Hội Chân Chính Harris tiến hành các tòa án dị giáo thông thường; hình như kết quả là ai cũng bị hỏa thiêu trên cái cọc. Nhưng hầu hết những người được cho là có thể sử dụng ma thuật đều là lừa đảo. Cho dù người sử dụng ma thuật có thực sự tồn tại, thì chắc sẽ rất khó để phân biệt họ với những kẻ giả mạo.

“Cái thứ đó không phải là một con quái vật bất diệt, đúng không?”

“Về mặt lí thuyết thì, không,” Fiona trả lời.

“Lý thuyết hay không lí thuyết, các người đều biết chúng có thể bị giết, phải không nào? Thế tại sao các người lại phải dâng vật tế?”

Theo một nghĩa nào đó, đây là một câu hỏi cực kỳ có lí. Tuy nhiên, đó cũng là một câu hỏi đến từ người đã từng sống ở một vùng đất màu mỡ. Chàng trai này không hay biết rằng có những người muốn sự bảo vệ thổ thần cho dù điều đó có nghĩa là phải dâng vật tế—những người sống ở một vùng đất mà nếu không có sự bảo vệ ấy, thì họ sẽ luôn bị nguy cơ chết đói rình rập.

Thở dài, Fiona giải thích. “Có đủ các loại thổ thần. Một số thậm chí còn hòa nhã, mặc dù rất hiếm. Ngược lại, một số lại cực kì tàn ác. Anh nói đúng về việc chúng không bất tử, nhưng hầu như chẳng người bình thường nào có thể đánh bại được nổi một con. Bất khả thi với bất kỳ loại vũ khí thông thường nào. Thứ duy nhất mảy may có tác dụng là một nhóm các chiến binh được trang bị vũ khí đầy đủ, hoặc nếu không, thì là Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris.” Và ở Friedland thì không có cả hai cái đó.

Fiona đã không bỏ lỡ những dao động phảng phất trong biểu hiện của Yukinari và Dasa. Chắc hẳn họ đã phản ứng với “Giáo Hội Chân Chính Harris”. Phải chăng họ có mối liên hệ nào với nó? Người ta nói rằng có nhiều người thông minh—được gọi là người thông thái—trong Giáo Hội. Có lẽ vũ khí của Yukinari đã được làm ra bởi Giáo Hội. Ít nhất thì điều đó có chút ý nghĩa gì đấy…

Yukinari mỉm cười. “Thì … Này nhé,” cậu nói vui vẻ, như để né tránh một vài câu hỏi chưa được hỏi. “Vấn đề là, thổ thần chết rồi. Không cần thiết phải dâng thêm bất kì vật tế nào nữa. Đó là một điều tuyệt vời, phải không nào?”

Các linh mục, đang đứng dựa vào bức tường, rục rịch. Fiona và vị linh mục tối cao đánh mắt về phía họ và kiềm chế đám người đó lại.

“Chúng tôi đã ngủ bờ ngủ bụi cũng được một thời gian rồi,” Yukinari nói, liếc nhìn Dasa. “Chúng tôi chỉ hy vọng có thể tìm thấy nơi nào đó quanh đây để ở, nhưng… ừm, có một số người khá tức chúng tôi. Tôi hiểu mà. Chúng tôi sẽ rời khỏi thị trấn ngay lập tức. ”

Trái ngược với Yukinari, người cộng sự tóc bạc của cậu trông không được khỏe cho lắm. Một cuộc hành trình như vậy, buộc cô nàng phải ngủ ngoài trời vào ban đêm, sẽ hết sức mệt mỏi.

“Không có đâu.” Fiona nói với Yukinari khi cậu chuẩn bị đứng đậy. “Chúng tôi cần anh ở lại vùng đất này trong tương lai sắp tới.”

“Hả? Sao—”

“Chúng tôi vốn đang nhận được sự bảo hộ của thổ thần đổi lấy việc dâng hiến vật tế. Nhưng giờ thì giao kèo ấy đã sụp đổ, những á thần khác sẽ tụ tập lại để tranh giành vị trí thổ thần.”

Giống như lãnh thổ của một con thú. Nếu có một thổ thần ở đây, các á thần khác sẽ không dám dám tiếp cận trừ khi chúng mạnh hơn gấp nhiều lần. Việc thổ thần đẩy lùi được các á thần khác cũng là một lý do khiến con người thờ phụng chúng.

“Thế… thị trấn của cô đang gặp nguy hiểm và cô muốn chúng tôi bảo vệ các người hay làm sao?”

“Không,” Fiona nói, lắc đầu. “Anh sẽ là người dẫn dắt mọi người.”

“Hả? Sao lại thế—”

“Tạo hóa sẵn định rằng người có quyền trở thành thổ thần kế tiếp là một á thần đã giết chết thổ thần trước đó. Nhưng anh thì chưa định cư tại mảnh đất này. Anh đã để lại một “chỗ trống”, và các á thần sẽ tập hợp lại với hy vọng chiếm lấy nó. Tuy nhiên, nếu chúng tìm ra kẻ đã giết vị thần tiền nhiệm ở đó… Tôi cho rằng chúng sẽ cố gắng giết anh trước. ”

Yukinari cau mày và im lặng. Tất nhiên, nếu cậu quyết định chọn con đường hèn nhát và chạy trốn khỏi khu vực, các á thần có lẽ sẽ bắt đầu đấu đá tranh giành ‘chỗ trống’ với nhau và không theo đuổi cậu. Cơ mà…

“Và dĩ nhiên, như tôi đã nói, nếu một á thần khó tính trở thành thổ thần, thì đó sẽ là vấn đề sống còn đối với chúng tôi. Số phận của thị trấn chúng tôi đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. ”

Thông thường thì thổ thần đòi hỏi mỗi hai hay ba năm một vật tế, nhưng nếu chẳng may là một con “háu ăn” khác thường, có thể nó sẽ đòi vật tế hàng năm. Người ta nói rằng có một số thổ thần đòi tới hai, ba hay thậm chí là nhiều người hơn cùng một lúc.

“Nếu bị cuốn vào cuộc chiến giữa các á thần, chúng tôi sẽ phải chịu thương vong. Các thổ thần không phải là những thứ duy nhất nhận được sức mạnh từ việc ăn thịt người—mà cả á thần cũng vậy. Một cách tự nhiên mà nói, chúng sẽ tấn công thị trấn này để ăn cho no nê trước khi lâm trận. ”

Ngay cả khi nói, Fiona vẫn biết rằng mình đang đánh cược một cách may rủi. Cô đang cố gắng cầu khẩn “lòng từ bi” và “lương tri” của Yukinari, dù biết rằng cậu không phải là một con người bình thường. Đến cả con người còn thấy khó giữ được những thứ ấy khi mà lưng họ đang dựa vào tường, nên chắc hẳn là phải lạc quan lắm mới đi mong đợi một thứ sánh ngang với á thần lại vốn sở hữu những điều như vậy.

Nhưng mặt khác, Fiona đã thấy Yukinari nổi giận với các linh mục. Cậu đã bày tỏ sự phật ý rõ ràng khi các linh mục chỉ trích cô gái tên Berta vì đã còn sống trở về. Đây là thời cơ ngàn năm có một để thay đổi thị trấn này, nơi bị ràng buộc bởi chế độ thổ thần và vu nữ cũ kĩ tàn bạo vốn có.

“Chúng tôi sẽ cần anh ở lại mảnh đất này thay cho vị thổ thần mà anh đã giết,” Fiona nói dõng dạc nhất có thể.

“Xin hãy qua đêm tại dinh thự của tôi,” Fiona Schillings, cô gái hình như đang thay mặt cho thị trưởng thị trấn nói. “Dĩ nhiên là tôi sẽ không tính anh phí ở.”

Thành thật mà nói, Yukinari muốn bỏ mặc thị trấn này ngay và luôn, song cậu lại do dự khi để cho Dasa ngủ ngoài trời thêm lần nữa. Cô nàng chẳng bao giờ than thở lấy một lời, nhưng điều đó chỉ có nghĩa rằng khi nàng thực sự suy sụp, thì điều đó xảy đến mà không báo trước. Cậu muốn để nàng nghỉ ngơi dưới một mái nhà bất cứ khi nào có thể.

Yukinari, Dasa, và Berta được cấp cho mỗi người một phòng. Đó là bởi khi Fiona hỏi Yukinari và Dasa xem liệu có phải họ đã kết hôn hoặc tình nhân hay điều gì đại loại thế, họ đã ngay lập tức phủ nhận. Tuy nhiên, mặc dù vậy, hiện tại thì Dasa lại đang ngồi trên giường của Yukinari.

“Bỏ cái kính này ra đi.”

“… mn …”

Dasa nhìn Yukinari với ánh mắt lờ mờ lơ đễnh. Yukinari nhận thấy má nàng đỏ bừng, song lại không thể nghĩ sâu về điều ấy. Đây là công việc tế nhị. Nếu không tập trung, có thể cậu sẽ làm nó rối rắm lên mất.

“Nhắm mắt lại.”

“… mn …”

Dasa nhắm cặp mắt xanh của mình khi Yukinari yêu cầu. Cậu đưa mặt mình lại gần nàng đến mức họ có thể cảm nhận được sức nóng cơ thể của nhau, và rồi cậu chạm vào mí mắt nàng.

“Mn … mmn …”

Chậm rãi, anh dùng ngón tay vuốt ve mí mắt nàng—nhè nhẹ, như thể đang mơn trớn nó. Đầu tiên là trái, sau đó sang phải. Anh chạm rón rén, liên tục theo dõi phản ứng của nàng.

Dasa đang hơi cựa quậy, nên cậu liền khẽ đưa cả hai tay khum mặt nàng và giữ yên nó. Cậu trượt thịt đệm ngón tay cái lên má nàng và lên mí mắt.

Một tiếng rên nữa thoát ra khỏi họng Dasa.

Trước đây cả hai đã từng làm điều này nhiều lần, nhưng lúc nào cô nàng cũng đỏ mặt và run rẩy như thể đó là lần đầu tiên. Những phản ứng của cô nàng, sự âu lo hòa lẫn, kỳ vọng, và rụt rè, theo một cách cực kì khêu gợi, và Yukinari đã nhận thức được thứ gì đó trong mình đang sôi sục lên. Tự vấn lại rằng mình chỉ đang chạm vào mặt em ấy, cậu tập trung vào công việc trước mắt.

“…Yuki …” Dasa thốt ra tên cậu như đang cầu khẩn cậu điều gì đó.

“Mở ra đi.”

“… mn …”

Chạm vào đôi lông mi run rẩy của nàng, Yukinari nâng mí mắt Dasa lên bằng những ngón tay. Một đôi mắt đẹp, lấp lánh ngập tràn màu sắc của bầu trời phản chiếu khuôn mặt cậu. Yukinari nheo mắt, nhưng cậu chẳng hề thấy đám mây nào trong đó. Trong cả hai con mắt, có vẻ như mọi thứ đều ổn cả.

Cuối cùng, Yukinari nhẹ nhàng thổi vào mắt nàng, như đang hôn chúng.

Một cơn rùng mình hữu hình chạy dọc thân thể Dasa.

Yukinari bỏ tay ra khỏi mặt nàng. “Cảm thấy thế nào? Không đau tí gì chứ? Có nhức hay ngứa không? Không có bất kì vấn đề gì với hướng đang nhìn phải không nào?”

“Chắc là… ổn,” Dasa nói, giọng hơi do dự.

“Okê. Thế được rồi.” Yukinari hạ tay xuống và thở phào. “Anh không phải chuyên gia… Thành thật mà nói, tất cả những gì anh biết chỉ là chút ít nghe kể từ người chị gái từng phải phẫu thuật. Anh không biết thấu kinh nhân tạo sẽ mang lại cho em những sự bất tiện như thế nào. Bản thân việc phẫu thuật đục thủy tinh thể có vẻ vốn diễn ra trong một thời gian rất dài. Nhưng điều đó không có nghĩa cái anh đã làm chắc chắn là hoàn hảo. ”

Dasa bị bệnh đục thủy tinh thể bẩm sinh.

Vì lý do đó, cô nàng không thể đọc hay viết cho đến khi 14 tuổi. Tuy nhiên, ký ức về việc giúp đỡ người chị gái Jirina, từng là một nhà giả kim, đã trở lại nhiều tới mức nàng có thể nhớ được. Bởi vậy, cô nàng có nhiều kiến ​​thức về thuật giả kim và các lĩnh vực liên quan đến nó, nhưng mặt khác, thỉnh thoảng cô nàng lại để lộ ra một lỗ hổng lớn trong vốn kiến ​​thức thông thường của mình.

Đôi mắt của Dasa giờ đây đã có những thấu kính nhân tạo được làm ra bởi Yukinari.

Các cuộc giải phẫu để điều trị đục thủy tinh thể đã được tiến hành kể từ thời Hy Lạp cổ đại. Không xét đến độ chính xác của công việc, thì nguyên tắc cơ bản tương đối đơn giản. Nó chủ yếu liên quan đến việc gỡ bỏ các thấu kính đục và chèn thấu kính nhân tạo vào thay thế.

Bàn tay Yukinari đã mang ánh sáng đến với đôi mắt của Dasa, nhưng như chính cậu từng nói, cậu không phải là một chuyên gia y khoa. Cậu lo ngại rằng bệnh đục thủy tinh có thể sẽ tái phát, và cũng có khả năng xảy ra các biến chứng khác. Bởi vậy nên cậu mới thường xuyên kiểm tra mắt Dasa. Cả kính của Dasa cũng vậy, không phải chỉ để tinh chỉnh lại tầm nhìn, mà còn để bảo vệ đôi mắt nàng càng nhiều càng tốt.

“Yuki …?” Dasa nói, đeo kính trở lại. “Giờ… sao…?”

“Sao, hử … Hừm. Gì cơ.”

Yukinari ngồi xuống bên Dasa và thở dài. Quật ngã vị thần của vùng đất này trước khi tìm hiểu bất cứ điều gì về nó quả là một sai lầm lớn. Những lời của Fiona chắc hẳn khiến cậu ngập ngừng. Bây giờ mà rời khỏi thị trấn thì cậu đắng lòng phải biết, khi mà biết rằng những cư dân của nó, bao gồm cả Berta, sẽ bị tấn công bởi các á thần. Cậu nghĩ rằng việc Fiona lầy lội vì muốn cậu ở lại đây và bảo vệ thị trấn như một thổ thần phần nhiều là có lí. Nhưng Yukinari có lý do để đi du hành—mà không, lý do để không ở lại một nơi mới đúng. Cậu phải bảo vệ Dasa, cho dù điều đó có nghĩa là phải làm một kẻ lang thang đến tận cuối đời.

“Anh đã có lời hứa với Jirina để mà bận tâm rồi…”

“… Ừm.” Biểu hiện của Dasa biến chuyển hơi phức tạp khi Yukinari đề cập đến chị gái cô nàng. Thay đổi ấy rất nhỏ nhặt đến nỗi không ai ngoài Yukinari, người luôn bên cạnh nàng, là có thể nhận ra được.

“Và cả em lẫn anh đều chẳng biết gì về thế giới này.”

“…Yuki…”

Như để đánh lạc hướng tâm trí bản thân ra khỏi sự lo âu, Dasa quàng hai cánh tay của mình quanh cánh tay trái của Yukinari và bám lấy cậu. Có lẽ bởi vì nàng đã dành phần lớn cuộc đời của mình để sống mà hầu như chẳng thể nhìn, Dasa thường chạm vào Yukinari như thế này, để chắc chắn rằng cậu ở đó. Nàng cũng có thói quen áp má lên ngực cậu và cố ngửi mùi cơ thể cậu, có lẽ vì lý do tương tự với việc điều đầu tiên mà con chó muốn làm với một vật là đánh hơi nó. Trong trường hợp của Dasa, cô nàng đã dành quá nhiều thời gian lệ thuộc vào thính giác và xúc giác hơn là thị giác. Bất chấp lòng tin vào sự điều trị Yukinari dành cho mình, chắc hẳn cô nàng không thể cứ thể từ bỏ nó và dựa hoàn toàn vào mắt mình được.

Theo nhiều cách, nàng là một cô gái có hoàn cảnh chẳng giống ai. Và đó là lý do mà chỉ Yukinari mới có thể bảo vệ được nàng.

“Trả thù và bỏ chạy thì cũng chẳng sao đâu, cơ mà chúng ta chưa bao giờ có bất cứ nơi nào để đi cả.”

“…Ừm.” Khóe môi Dasa run rẩy. Và một lần nữa, có lẽ Yukinari là người duy nhất nhận ra được ý nghĩa thực sự của nó: nụ cười rạng rỡ nhất mà Dasa có thể ép lên gương mặt mình.

Các phong tục văn hoá biến đổi từ miền đất này sang miền đất khác và hầu hết đều hình thành từ một số điều thiết yếu. Nếu khí hậu phân hóa, thì việc văn hoá, phong tục, và đặc biệt là lối sống cũng khác nhau là điều hoàn toàn tự nhiên. Quần áo, thực phẩm, chỗ ở, và tất cả các nhu cầu cơ bản khác đều thay đổi để thích ứng với đất đai.

Ví dụ, tắm, khác nhau tùy thuộc vào độ dễ của việc kiếm nước và nhiên liệu, cũng như các yếu tố khác như nhiệt độ không khí và độ ẩm. Ở một số nơi, người ta rửa ráy thân thể bằng những xô nước mưa; ở những nơi khác, tắm hơi lại là chuyện bình thường. Trên thực tế, phong cách tắm ở các nước như Nhật Bản, trong bồn tắm chứa đầy galông nước nóng bốc hơi, có vẻ như được liệt vào loại khá hiếm tại thế giới này.

Vậy nên khi Yukinari nghe Fiona nói rằng vùng đất đặc biệt này có loại hình tắm hiếm hoi ấy, niềm hân hoan của cậu đã ở một mức khác hẳn. Hình như có một suối nước nóng gần đây mà có thể dễ dàng lấy được nước nóng. Cả cơ ngơi của nhà Schillings cũng được trang bị một bồn tắm như vậy. Và nó khá rộng rãi. Nó có kích thước ngang với một bồn tắm trong nhà trọ suốt nước nóng Nhật Bản; chắc hẳn nếu thích thì khoảng tầm 10 người sẽ có thể tắm với nhau. Bồn tắm được làm bằng đá, và nó vừa mang lại cảm giác như một bồn tắm lộ thiên lại vừa hợp với khẩu vị của Yukinari.

“Ồồồồồồ …” Yukinari không thể kìm nén mà thốt lên tiếng cảm kích trong khi ngâm mình vào bồn tắm và duỗi chân. Đó là cảm giác mà cậu đã không trải nghiệm trong một thời gian rất lâu rồi. “Chắc là cả cơ thể này cũng có lúc mệt mỏi ha…” Khi thư giãn trong làn nước nóng, cậu ngước nhìn trần nhà. Một giọt nước rơi thẳng xuống vào mũi cậu. “Uầy, lạnh thế! …… Ha. Hahaha, chuẩnnn, thế mới là bồn tắm chứ!”

Tự dưng cậu đá chân trong làn nước. Cảm giác như vừa trở lại thời thơ ấu của mình. Nghĩ lại về nó, cậu đã từng đến phòng tắm công cộng nhiều lần với chị Hatsune hồi còn nhỏ. Bồn tắm trong nhà bị vỡ, nhưng vì là trẻ con, nên hai đứa chẳng thể làm gì được, và cha mẹ họ thì lại hiếm khi về nhà. Vậy là cả hai đã cùng ra ngoài với nhau, nắm chặt trong tay những đồng tiền tiêu vặt. Cậu vẫn còn nhớ như in lúc cả hai nắm tay nhau và đi bộ qua thị trấn vào mùa đông, với một chiếc khăn quấn quanh cổ hai đứa. Có lần, một người khách khác thấy cảm thương cho hai đứa trẻ chịu đựng gió rít để ra bồn tắm công cộng, và đã mua cho hai đứa sữa vị trái cây. Hành động tốt bụng của người lạ mặt vô danh ấy nổi bật lên như một kỉ niệm hạnh phúc.

Khi Yukinari nghĩ về “cuộc đời trước của mình,” âm thanh mở cửa phát ra từ hướng phòng thay đồ.

“Hửm?” Cậu nhanh chóng quay đầu thấy cửa mở ra và một bóng hình đang bước qua vào phòng tắm. Rõ ràng là một cô gái.

“Nghiêm túc đó hả…?” Yukinari rên rỉ nói, nheo mắt. Và bên kia bức màn hơi nước là Berta, trần truồng như ngày cô chào đời.

Yukinari đã nhìn thấy khuôn hình của cơ thể cô khi cô mặc bộ đồ mỏng ấy, vậy nên vốn dĩ cậu đà gần như quen với nó, nhưng không thể phủ nhận rằng tại phòng tắm này đây nó tạo ra một ấn tượng hoàn toàn khác. Cô ấy có một thân hình tuyệt đẹp, cân đối mà lại cong ở tất cả những nơi cần cong. Sự tròn trịa nuột nà của cặp gò bồng đào gây kích thích mạnh mẽ tới cảm quan, và làn da của cô ấy, thấm đẫm trong hơi nước, quyến rũ không thể chối từ.

Berta bước thẳng về phía Yukinari.

“Cô đang làm gì thế?” Yukinari lên tiếng hỏi rõng rạc.

Khó để biết liệu là do nhiệt độ phòng tắm hay là do cô ấy xấu hổ, nhưng má Berta đỏ lên. “Em tồn tại để được dâng hiến cho thổ thần, nên là…”

“Đó thực sự không phải là lý do đâu…”

Có lẽ cô ấy nghĩ rằng mình đã chết một lần rồi, vậy nên là không quan tâm chuyện gì xảy ra với mình sao? Nhưng cách mà cô đang tự nguyện phô ra cơ thể trần truồng của mình với cậu lúc này cứ như đang cầu xin để mà bị hãm hiếp vậy—

“Bình tĩnh, vậy ra đây là ý cô khi nói mình không ngại bị ăn thịt à?”

“Em không biết liệu ngài có phải là thổ thần không, hoặc là thứ gì khác.” Berta đến thẳng chỗ Yukinari và quì gối. “Nhưng ngài không cố ăn em… Và nếu điều này tiếp diễn… Em sẽ không thể làm việc của mình…”

Yukinari tự hỏi phải chăng việc bị buộc tội “trở lại mà không làm việc của mình” đã khiến cô ta cảm thấy áp lực một cách kỳ lạ.

“Bởi ngài đã khoác lên mình hình dáng của một quý ông, nên em nghĩ để làm ngài hài lòng, em nên … ừm …”

“Được rồi, này nhé. Tôi rất lấy làm vui lắm. Ý tôi là, một thằng đực rựa thì còn đòi hỏi điều gì hơn cơ chứ, đúng không nào?” Yukinari lại nghiêng đầu về phía trần nhà và thở dài. “Nhưng cô biết thế nào rồi đấy. Có ai đó ở đây sẽ giận tôi mất” Yukinari chỉ.

“Hử…?” Berta nhìn phía mình. Có cánh cửa mà cô vừa mới đi qua. Nó được làm bằng gỗ, chỉ đóng và mở cũng gây ra tiếng động lớn, và có vẻ hơi bị biến dạng. Và trông như nó đã không được đóng hẳn. Có một khoảng trống nhỏ.

Và ở phía bên kia khoảng trống ấy—ai mà biết cô nàng đã ở đó bao lâu—có thể thấy Dasa đang đánh bóng Ớt Đỏ với vẻ trống rỗng trên gương mặt. Yukinari cảm thấy muốn hỏi lý do tại sao cô nàng lại chọn nơi đó để đánh bóng súng của mình, cơ mà dù sao thì chắc Dasa cũng sẽ không trả lời đâu.

“…Bẩn thỉu.” Một từ duy nhất lặng lẽ trườn ra từ đôi môi của Dasa khi cô nàng ngừng đánh bóng Ớt Đỏ. Vì một lý do nào đó, cô nàng cũng đã chốt cò súng và biểu diễn xoay ổ đạn.

“Đã thấy cơn ác mộng mà tôi phải đối mặt chưa?”

Berta dường như bối rối.

“Mà còn nữa,” Yukinari nói với cái trần nhà. Cậu cảm thấy không thoải mái khi nhìn thẳng cô. “Có phải Fiona Schillings đã bảo cô làm điều này không?”

Berta cạn lời, nhưng nhìn người cô ấy run run, thì có vẻ như cậu đã nói trúng tim đen. Cung cấp một người phụ nữ vì lợi ích của thị trấn—không phải là ý tưởng đáng mong đợi từ một người phụ nữ trẻ như Fiona, nhưng cũng không phải là không ai biết được. Hoặc có lẽ chính các linh mục đã chỉ thị cho Berta sử dụng cơ thể của cô ta để thao túng Yukinari. Nếu Yukinari cảm thấy khoan khoái vì nó dù chỉ một chút, thì cũng đã là thành công rồi, và nếu cậu say đắm và khuất phục trước thân thể của cô ấy, thì còn tốt hơn cả mong đợi. Đó chắc là suy nghĩ của họ.

“Mấy cái thứ về ‘công việc’ của cô hoặc gì gì đó ấy… tạm thời cứ hoãn lại đi đã. Thế còn vào đây luôn đi thì sao?” Yukinari chỉ bồn tắm, nước nóng ngập tới miệng bồn. “Bị lạnh thì chẳng được ích lợi gì đâu.”

Lúc Yukinari còn đang tắm, Fiona đã bố trí một cuộc họp mặt với các linh mục trong văn phòng của mình.

“Có là á thần hay cái gì cũng được,” một linh mục nói “hắn ta buộc phải chịu trách nhiệm về việc giết Thổ thần đang bảo vệ mảnh đất này.”

Ngay khi vừa chấp nhận tình hình hiện tại, họ nhanh chóng thay đổi suy nghĩ của mình. Dĩ nhiên, muốn làm linh mục của vùng này thì đòi hỏi phải có được điều ấy. Suy cho cùng, các vu nữ ứng cử viên và linh mục đều sống chung một mái nhà và ăn chung một nồi, và dù vậy các linh mục lại phải gửi họ đi để hiến tế—và phải làm việc này thường xuyên. Cứ công nhận rằng là, các vu nữ đã được nuôi nâng cho mục đích này, nhưng ngay cả thế, không ai ngoại trừ một người có sự gắn kết mạnh mẽ với vạn vật mới có thể khỏa lấp được một vị trí như vậy.

Các linh mục đang cố đi đến một sự thống nhất về việc tônYukinari lên làm vị thổ thần mới.

“Tuy nhiên, tôi băn khoăn về việc trói buộc hắn bằng sức của chúng ta dù bằng bất cứ cách nào đi chăng nữa.”

“Nói gì thì nói, hắn ta cũng có đủ sức mạnh để quật ngã một thổ thần.”

“Nếu thế thì, tôi đề xuất một động thái khôn ngoan nhất đó là lấy lòng hắn bằng cách tặng cho hắn một vu nữ.”

Nói chung là, có vẻ họ lí luận ra rằng vì cậu trông giống một người đàn ông, nên có thể họ sẽ lấy được lòng cậu bằng cách gửi cho cậu một người phụ nữ. Đó là một ý tưởng không đứng đắn, nhưng chẳng còn cách nào khác cả.

“Tôi đã nói với Berta chuyện này rồi. Nên là, cứ thong thả đi.” Fiona nhắm mắt lại và hít thở sâu. “Việc này sẽ phải kéo dài bao lâu chứ?”

“Thì… Ta e rằng có những luật lệ chi phối thế giới của chúng ta. Việc đả động đến chúng nằm ngoài sức mạnh mà chúng ta có.” Vị linh mục tối cao nói như đang thuyết giảng. “Động vật ăn cỏ, người ăn động vật, và thần thì ăn người. Ấy là lối mòn của thế giới. Chống lại nó chẳng ích gì đâu. Chỉ cần chấp nhận nó là được rồi. ”

“Con có ư?” Fiona nheo mắt và nhìn chằm chằm vị linh mục tối cao. “Nhưng tại thủ đô-”

“Con đang nói đến Giáo Hội Chân Chính Harris à?” Vị linh mục tối cao vặc lại câu hỏi như để chặn đứng Fiona. “Bọn ta cũng đã nghe về những tin đồn. Người nói rằng Lệnh Truyền giáo có thể quật ngã cả những vị thổ thần. Lời nói rằng họ đang ngày càng có nhiều tín đồ. ”

“Vâng.”

Giáo Hội có rất nhiều ảnh hưởng tại thủ đô. Trên thực tế, phần lớn những người sống ở đó đều là tín đồ của Giáo Hội. Hoàng gia, quý tộc, và cả thường dân tương tự đều theo Giáo Hội Chân Chính Harris. Về mặt lịch sử, trường phái tư tưởng của họ còn tương đối mới mẻ, nhưng bất kể điều này, học thuyết dễ hiểu của Giáo Hội và “sức mạnh” mà nó đã thể hiện qua nhiều dịp đã dẫn tới sự gia tăng nhanh chóng của các tín đồ.

“Nhưng Phó Thị trưởng—mà không, Phu nhân này,” vị linh mục tối cao nói giọng thoai thoải, “Hãy suy nghĩ xem tổ tiên của phu nhân sẽ nói nếu phu nhân bãi bỏ các truyền thống được kính chuộng lâu đời và thay thế chúng bằng những bài học nổi cộm lên như vậy. Hãy suy nghĩ về nỗi buồn mà nó sẽ mang lại cho cha của phu nhân, người đang nằm liệt giường. ”

“Vâng, con có thể hình dung ra được.”

Fiona đã đi học tại thủ đô trong khoảng bốn năm. Ngoài việc đọc và viết, đó còn là nơi để thu được kiến ​​thức rộng mở và phát triển lối tư duy phản biện. Có những người khác giống như cô, từ tất cả các vùng miền, những người đã đến đó để học hỏi. Thông qua việc giao du với họ, Fiona đã biết được rằng các loại hình phong tục và truyền thống bất hợp lý cắm rễ tại các vùng nông thôn thực sự có nhiều hình thù và kích cỡ, và hầu hết chúng đều phi lý. Trong tâm trí của Fiona, các vật tế cho thổ thần là hình ảnh thu nhỏ của điều này.

Dù vậy, sẽ không ai có thể thay đổi cách nghĩ của họ—không phải linh mục tối cao, không phải các linh mục thấp hơn, hay thậm chí là hầu hết người dân thị trấn. Fiona nghĩ rằng chắc họ sợ. Thay đổi cách nghĩ của mình là thừa nhận rằng trước kia mình đã sai. Nếu thừa nhận rằng bản thân việc hiến vật tế thường xuyên là một sai lần, thì họ sẽ chẳng còn đường nào để quay đầu lại. Bởi tin rằng mình đang làm đúng nên họ mới có thể giữ cho hành động tàn ác như vậy diễn ra như một truyền thống trong suốt thời gian dài.

“Ở đây chúng ta có cách sống riêng của chúng ta. Ta khuyên con—”

“Con hiểu rồi.”

Trong lúc vị linh mục tối cao khuyên răn cô bằng giọng bình thản như thể cái gì cũng biết, Fiona che giấu sự bực tức và chỉ gật đầu.

Cảm giác không khí ban đêm tốt cho cơ thể nóng nảy của cậu.

Yukinari đã ra sân dinh thự một mình và đang tự hạ nhiệt xuống.

Dasa đã ngay lập tức ngủ thiếp đi trong phòng riêng. Sự mệt mỏi của cuộc hành trình chắc hẳn đã choán lấy cô nàng. Chắc bây giờ cô nàng đang ngủ say đến mức dù có kẹp chặt má nàng và kéo nó thì nàng cũng chẳng dậy. Có thể nàng vẫn chưa buông lời than thở, nhưng Yukinari biết được rằng nàng đang làm quá sức.

“…Cơ mà.”

Nếu bị truy đuổi, thì ta phải chạy. Những người duy nhất mà Yukinari và Dasa có để dựa vào trong thế giới này chính là nhau. Nếu ai đó muốn họ chết, thì họ chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài chạy và không bao giờ dừng lại. Bất kể trong thực chiến cậu có mạnh tới đâu, nếu cứ liên tục phải đề cao cảnh giác những kẻ ám kích, thì sự ổn định tinh thần của cậu sẽ rã rời trong vòng một tháng.

“Phần này của mình đúng là chẳng bao giờ thay đổi,” Yukinari lầm bầm, nhìn lên bầu trời đầy sao.

“Yukinari.”

Một tiếng gọi cậu từ phía sau. “Thì ra anh ở đây.”

Cậu thừa biết đó là ai mà chẳng cần ngoái lại. Thành thực mà nói, về cơ bản thì cậu đã biết rằng có ai đó đang tiếp cận mình. Cậu có thể cảm nhận được sự hiện diện của cô ấy. Mặc dù không thể nói rằng mình đã hoàn toàn làm chủ được cơ thể này, nhưng cậu phải thừa nhận các giác quan của nó sắc nét một cách kì lạ. Không chỉ thế, cậu còn có tay và chân khoẻ cùng sức chịu đựng tốt. Cơ thể cậu có khả năng cao trên mọi khía cạnh.

Đó là lý do tại sao cậu cảm thấy bực bội vì khả năng chịu đựng tinh thần của mình vẫn bị khóa ở một mức như vậy. Dĩ nhiên, điều đó khiến cho Yukinari là chính mình, và là bằng chứng cho danh tính của cậu.

“Berta đã không làm theo ý muốn của anh sao?” Fiona hỏi khi đứng cạnh Yukinari.

“Không phải là liệu cô ấy có ‘theo ý muốn của tôi’ hay không. Và tôi thừa biết là cô đã ép cô ấy vào việc đó.”

“Hay là vấn đề về số lượng? Anh có một cô gái đi cùng, nên tôi đã nghĩ rằng một thôi là đủ, nhưng chúng tôi còn có những vu nữ khác. Nếu anh muốn thêm, thì chúng tôi có thể cung cấp họ. Nếu anh làm phước cho chúng tôi biết gu của mình, thì tôi chắc chắn các linh mục sẽ tìm ra một người phù hợp.” Fiona không hề ngại khi thảo luận về vấn đề này. Có lẽ điều này cho thấy họ có một hệ thống vận hành để “sản xuất” những vật tế mới.

Yukinari không đánh giá cao thái độ nói năng về người khác như đồ vật. Nên cậu bèn quyết định nhây với cô ta một chút.

“Gu. Thế thì… tóc vàng, mắt xanh?”

Mặt Fiona đanh lại.

“Tôi thích một người phụ nữ được giáo dục tốt và cư xử như một nàng công chúa. Và tôi muốn ghì chặt cô ta xuống và khiến cô ta phải kêu ré lên. Ừm, nghe có vẻ giống gu của tôi đấy. Nghĩ xem có thể kiếm cho tôi một người như thế không? ”

Dù trông choáng váng, nhưng sau một hồi ngập ngừng, Fiona tập hợp lại một câu trả lời.

“Yukinari.”

“Vâng, thưa Công Chúa?”

“Tôi không chắc liệu mình có thể kêu ré lên vì anh hay không, nhưng anh có muốn đến phòng tôi không? Ngay bây giờ ấy?”

“Không cần phải kêu ré, thở hổn hển cũng được mà—khoan, gì cơ?” Yukinari tròn mắt nhìn Fiona. “Cô có biết mình đang nói gì không?”

“Tôi nghĩ rằng mình nên làm vậy,” Fiona nói, ép ra một nụ cười.

Trong hồ sơ của cô, diện mạo vẫn còn giữ được nét trẻ trung của nó, mà bây giờ lại trông trưởng thành quá đỗi—mà không, cả già đi nữa chứ. Có lẽ cô đã trải qua nhiều thứ hơn Yukinari nghĩ, và kết quả là hiểu thế giới hơn gấp nhiều lần. Ít nhất thì, một người sống mà chưa bao giờ đưa ra quyết định khó khăn, mà lại không hề cảm thấy bất tiện, sẽ chẳng thể nào trưng ra vẻ mặt thế này được.

“Chớ quên, tôi là con gái của thị trưởng. Con gái của người điều hành thị trấn này. Nếu có thể bảo vệ cả thị trấn với cái giá là sự thuần khiết của tấm thân mình, thì tôi sẽ gọi nó là một cái giá rất rẻ mạt.”

“… Uao.”

“Cha tôi muốn tôi trở thành một nhà cai trị tốt, vậy nên đã gửi tôi tới trường học ở thủ đô để mở rộng nhận thức. Tôi nghĩ ông ấy đã dành một số tiền không hề ít ỏi gì vào nó. Có lẽ hôm nay có người đang chết đói ở đâu đó và những người mà chúng tôi buộc phải bỏ rơi lẽ ra đã có thể được cứu với số tiền ấy. ”

“Điều đó-”

“Cho nên là, tôi không có đủ khả năng để trở thành thế thân cho các vu nữ. Nếu tôi bị ăn bởi một thổ thần, thì số tiền ấy sẽ bị lãng phí, số tiền mà lẽ ra đã có thể được dùng để cứu năm hay mười người. Nếu tôi sắp phải hy sinh tấm thân này, thì điều ấy sẽ chỉ xảy ra khi tôi chắc chắn rằng bằng cách đó tôi có thể cứu sống ít nhất mười người đang sống tại thị trấn.” Fiona chỉ nói ra sự thật, không hề có cảm xúc.

“Yuki, nếu có một điều tôi có thể dám chắc về anh, thì đó là anh không ăn thịt và giết các vu nữ giống như thổ thần. Vậy nên khi Berta và tôi hiến dâng thân mình cho anh, thì anh biết rằng chúng tôi sẽ không chỉ được “dùng một lần thôi”, phải chứ?”

“… Thì … chắc vậy,” Yukinari nói với nụ cười nhạt.

“Anh có thể bảo vệ thị trấn này trong năm năm, mười năm, hoặc có lẽ lâu hơn. Đó sẽ là sự đền bù còn hơn cả đủ đối chúng tôi.”

“Xin lỗi, nhưng mà… hô mưa, ngăn lũ, và làm đất đai màu mỡ… tất cả những điều ấy đều bất khả thi với tôi, cô biết chứ.”

“Nhưng mà, anh đã quật ngã thổ thần, đúng không? Thế có khác gì bằng chứng cho thấy anh có cùng đẳng cấp sức mạnh với các vị thần.”

“Không phải lại nữa chứ…” Yukinari thở dài và vỗ lòng bàn tay vào Durandall trên hông mình. “Giống đã nói lúc trước, tôi chỉ sử dụng một vũ khí hơi đặc biệt chút xíu thôi.”

Cậu đã táy máy với diện mạo của Durandall một chút, nhưng thực sự mà nói, nó chỉ là một khẩu súng trường ngắn nóng nạp đạn bằng đòn bẩy, một khẩu Winchester M92 Randall Đặc Chế, với một lưỡi dao gắn vào. Phải mất một chút làm quen với việc cân bằng trọng lượng và vân vân, nhưng rõ ràng là cả những người bình thường cũng có thể sử dụng nó.

“Tôi thật sự không phiền đưa luôn cho cô cái này để trả tiền tá túc một đêm đâu.”

“Tôi không biết loại vũ khí đó là gì—nhưng nó sẽ chẳng mang lại cho chúng tôi lợi ích gì như được trao một thanh kiếm. Nếu không có kiếm sĩ thì bất kì thanh kiếm nào cũng chẳng khác mấy so với một que củi.”

“Có lí phết.” Yukinari nhún vai. Cho dù cư dân của thị trấn này có nhận được Durandall, thì sẽ phải mất một thời gian để học cách sử dụng nó hiệu quả. Cũng có cả những điều khác cần phải xem xét đến: nguồn cung đạn .44 Magnum và thay thế các bộ phận mòn hoặc bị hư hại. Chắc chắn nó không đơn giản chỉ là bàn giao lại Durandall và mọi thứ sẽ được giải quyết. Hiểu như vậy, làm việc với súng khó theo nhiều cách.

“Nhân tiện…” Fiona đột ngột thay đổi chủ đề. “Có vẻ anh đang ngao du đi đâu đó … Có nơi nào anh cần phải nhanh chóng tới được không?”

Yukinari do dự một lát. Điều này chẳng can hệ gì đến Fiona. Cậu không có nghĩa vụ phải nói cho cô ta biết điều đó. Nhưng sau khi khiến Fiona nói về “lòng quyết tâm,” của mình, cảm giác thật không công bằng khi cậu chẳng chịu hé nửa lời về bản thân.

“Tôi đã hứa với một người,” cậu nói, nhìn lại về hướng dinh thự. “Rằng tôi sẽ bảo vệ người con gái mà cô đã thấy đi cùng tôi. Dasa. ”

“Bảo vệ khỏi cái gì?”

Cái đó, Yukinari không thể trả lời. Cậu không thể biết trước thái độ của Fiona sẽ thay đổi như thế nào nếu cô khám phá ra sự thật. Hơn cả thế nữa cô ta đã từng một thời ở thủ đô. Cô gái này duy lí một cách kinh ngạc—nhưng ngay cả thế, con người cũng không có khả năng đưa ra mọi quyết định hoàn toàn dựa trên lí trí, giống như một cái máy được.

“Đó có phải điều mà anh không thể làm ở đây không?” Fiona hỏi, nghiêng đầu. Không rõ cô đã lí giải sự im lặng của Yukinari như thế nào.

“Tôi không biết …” Cậu đã hứa với Jirina rằng sẽ bảo vệ Dasa. Đối với Yukinari, giả kim thuật sư Jirina Urban là một người mẹ, người chị gái, vị cứu tinh, và là một người đáng khắc cốt ghi tâm sau khi từ trần. Cậu không bao giờ có thể nhìn thấy chị nữa. Do đó, lời hứa cậu đã lập với chị không thể phá vỡ được.

Tuy nhiên, cách để giữ lời hứa ấy không nhất thiết phải được khắc trên đá. Yukinari còn chẳng rõ việc tiếp tục chạy có thực sự là lựa chọn tốt nhất hay không nữa. Thực tế là Dasa dường như rất mệt mỏi, và nếu họ tiếp tục hành trình dai dẳng này, thì ngày nào đó một vấn đề chết người có thể sẽ xảy đến. Cơ mà…

“Tôi thực sự … không biết.”

Buổi tối đã trôi qua. Với bầu không khí ban đêm làm mát cơ thể họ, Yukinari và Fiona đứng yên lặng lẽ, dưới vòm trời sao.

Bạn đang đọc Bluesteel Blasphemer của Sakaki Ichirou
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi ST04012003
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.